Thứ Ba, 29 tháng 11, 2016

Phạm Chí Dũng: Vì sao Quốc hội Việt Nam hoãn thông qua Luật về Hội?

Vì sao Quốc hội Việt Nam hoãn thông qua Luật về Hội?
http://boxitvn.blogspot.com/2016/11/vi-sao-quoc-hoi-viet-nam-hoan-thong-qua.html

 -- via my feedly newsfeed

Không ngoài dự đoán của phần lớn giới quan sát độc lập, kỳ họp cuối năm 2016 của Quốc hội Việt Nam đã "nhất trí cao" với đảng cầm quyền về việc hoãn thông qua Luật về Hội.

Buổi sáng Washington và buổi chiều Việt Nam

Luật về Hội đã suýt được thông qua ngay đầu kỳ họp Quốc hội vào cuối Tháng Mười. Tuy nhiên, nội dung khi đó của Luật về Hội lại mang tính "siết" về nhiều vấn đề, khác hẳn với bản dự thảo Tháng Mười, đến mức một Luật sư nhân quyền là ông Trần Vũ Hải phải cảnh báo Dự Luật về Hội này là "luật phản động".

Vào buổi sáng ngày 25 Tháng Mười, các đại biểu Quốc hội đã "tập trung thảo luận" theo hướng vẫn chấp nhận quan điểm của bản giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về "siết hội" mà không có bất kỳ đại biểu hoặc đề xuất nào trong nghị trường nằm ngoài "đường ray".

Chỉ ngay sau cuộc gặp giữa ông Đinh Thế Huynh và ông John Kerry tại Washington, DC vào buổi sáng ngày 25 Tháng Mười, đến cuối giờ chiều ngày hôm đó (giờ Việt Nam) Dự luật về Hội mới bất ngờ được ông Lê Vĩnh Tân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cơ quan về danh nghĩa là "chủ trì soạn thảo Dự luật về Hội, nêu trước Quốc hội: "Thừa nhận việc chuẩn bị dự án luật chưa được chu đáo, và vì còn nhiều ý kiến khác nhau về dự thảo luật nên cần có thời gian chuẩn bị tiếp để trình Quốc hội tại kỳ họp sau, tạo sự đồng thuận cao mới thông qua luật".

Tuy cho đến nay đảng không xác nhận bất cứ mối liên hệ nào giữa cuộc gặp đột biến Đinh Thế Huynh - John Kerry với hiện tượng Quốc hội Việt Nam đột ngột hoãn Luật về Hội, nhưng phần lớn giới quan sát và phân tích cho rằng hẳn một trong những mục đích lớn nhất của chuyến đi của ông Đinh Thế Huynh là nhằm đề nghị phía Mỹ tái cam kết về việc "sẽ cho Việt Nam vào TPP". Mà điều kiện tiên quyết để vào TPP là Việt Nam phải chấp nhận định chế Công đoàn Độc lập và Luật về Hội – tất nhiên là một luật mở chứ không phải đóng đối với các hội đoàn dân sự, đặc biệt là 30 tổ chức xã hội dân sự độc lập đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.

Rất có thể tác động trực tiếp từ cuộc gặp trên của ông Đinh Thế Huynh đã giúp Quốc hội triển khai thực thi việc hoãn Luật về Hội để chờ kết quả của TPP tại Quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời vẫn chuẩn bị sẵn việc thông qua TPP tại Quốc hội Việt Nam nếu nỗ lực trình TPP ra Quốc hội Hoa Kỳ của Tổng thống Barack Obama đạt thành công.

Vì sao "bỏ ngỏ" Luật về Hội?

Đến gần trung tuần Tháng Mười Một, Tổng thống Obama bất ngờ phải nhận một trong số ít thất bại trong nhiệm kỳ của ông, nhưng lại là thất bại nặng nề: Thượng Viện Mỹ tuyên bố thẳng thừng sẽ không họp hành gì về TPP trong năm 2016. Điều đó cũng có nghĩa là TPP, nếu còn đôi chút tương lai để được xem xét và thông qua, sẽ phải bị treo lại thêm ít nhất một năm nữa.

Ngay lập tức, tác động tiêu cực trên đã khiến chẳng cần đảng phải chỉ đạo, Quốc hội Việt Nam cũng mau mắn "hoãn bỏ phiếu thông qua TPP". Cũng chẳng còn ai nhắc đến Công đoàn Độc lập nữa.

Nhưng riêng Luật về Hội thì lại là một câu chuyện tương đối khác biệt.

Luật về Hội không chỉ là một trong những yêu cầu cải cách luật pháp về nhân quyền mà Mỹ và phương Tây đặt ra đối với giới lãnh đạo Việt Nam liên quan mật thiết đến TPP, mà còn tương tác mật thiết với hiện tồn Việt Nam đang là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Từ đầu năm 2014 đến nay, nhiều quốc gia thành viên của Hội đồng này liên tục khuyến cáo chính thể Việt Nam phải công nhận xã hội dân sự và các tổ chức dân sự độc lập nằm trong mô hình tiến bộ này.

Dù sao, việc Quốc hội quyết định không thông qua Luật về Hội tại kỳ họp cuối năm 2016 cũng là một dấu hiệu cho thấy chủ trương "Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm quyền con người" chưa đến nỗi quá tệ: nếu thông qua với nội dung siết bức, Quốc hội sẽ phải tiếp nhận vô số phản ứng từ cộng đồng dân chủ và có thiện cảm với dân chủ trong nước, đồng thời gây bất lợi không nhỏ về kinh tế, ngoại giao và cả chính trị cho chế độ một đảng Việt Nam trong quan hệ với các nước phương Tây.

Khả năng rõ nhất là chính thể một đảng ở Việt Nam không còn dám áp đặt luật pháp độc trị theo cách đã từng thông qua Hiến pháp 2013 khi vẫn giữ nguyên những nội dung cực kỳ bảo thủ như "kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo" và "sở hữu đất đai toàn dân", khiến từ năm 2014 đến nay lượng tín dụng cho vay của các tổ chức tài chính quốc tế cho Việt Nam đã giảm hẳn, còn số viện trợ không hoàn lại từ các chính phủ Bắc Âu đối với Việt Nam cũng xuống dốc thê thảm. Khả năng rõ nhất là chế độ độc trị ở Việt Nam muốn kéo lùi Dự luật về Hội để ngó chừng "tình hình mới".

Nếu tạm loại bỏ yếu tố rất quan trọng xúc tác cho Luật về Hội là TPP, Luật về Hội vẫn là một điều kiện để phương Tây và các ngân hàng chủ nợ của Việt Nam đặt điều kiện về vấn đề cho Việt Nam vay tín dụng, thậm chí có thể liên quan cả chủ đề sự hiện diện của hải quân Mỹ ở Biển Đông.

Hẳn giới lãnh đạo Việt Nam không bỏ qua những điều kiện "còn nước còn tát" liên quan mật thiết đến nền kinh tế và chân đứng chế độ Việt Nam như thế.

"Nhóm muốn thay đổi"

Cần chú ý một biểu hiện khá lạ lùng là cùng thời điểm công bố bản dự thảo "phản động" Luật về Hội vào Tháng Mười Một, trên Tạp chí Tuyên giáo (thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương) đã xuất hiện một bản tin có tựa đề "Dự thảo Luật về hội còn những điểm 'sai lệch' cần tháo gỡ", ghi nhận những ý kiến "đề nghị Quốc hội cân nhắc, dành thêm thời gian để hoàn thiện dự thảo luật và có thể để lùi lại việc thông qua vào kỳ họp sau trong năm 2017".

Trước kỳ họp Quốc hội cuối năm 2016, cũng xuất hiện hiện tượng một số quan chức trung và cả cao cấp từ cơ quan kinh tế, tuyên giáo, dân vận tỉnh thành đến văn phòng Chính phủ và văn phòng Chủ tịch nước tỏ ý đồng thuận với việc ban hành một luật về hội mang tính "mở", thay vì "siết". Trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối mặt không chỉ với "vách đá tài chính" mà cả với cơn sóng ngầm phản kháng dữ dội từ dân chúng về quá nhiều vấn nạn và quốc nạn xã hội, rất có thể đang xuất hiện ngày càng nhiều quan chức bộc lộ quan điểm "cải cách" theo hướng mị dân hoặc nói văn hoa hơn là chủ nghĩa dân túy.

Dù chưa có một thống kê chính thức nào, nhưng rất nhiều tin tức ngoài lề cho biết nhiều quan chức trung cấp và cả cao cấp của Việt Nam có tài sản cố định, tài khoản ngân hàng và thân nhân ở Mỹ và các nước phương Tây. Cho tới nay, bằng chứng sống động nhất là đã có đến $19 tỷ được chuyển từ Việt Nam ra nước ngoài vào năm 2015. Rất nhiều nghi vấn đã được nêu ra nhắm vào giới quan chức Việt Nam đã và đang âm thầm kiếm tìm "bến bờ mới".

Khuynh hướng "ngả về phương Tây" trong giới quan chức Việt Nam cũng bởi thế hầu như tương đồng với giới quan chức ăn đậm ở Trung Quốc. Kìm nén quyền dân về tự do lập hội đã quá lâu, nhưng nay thời thế đã quá đổi khác. Trong bối cảnh các tổ chức dân sự độc lập ra đời ở Việt Nam đã thỏa mãn phần lớn tên gọi quyền dân của xã hội, Luật về Hội nếu có ban hành cũng chẳng khiến phát sinh thêm nhiều tổ chức xã hội dân sự. Trong khi đó, luật này lại luôn có thể được xem như một "món quà" trong con mắt phương Tây nếu chính thể Việt Nam buộc phải nới pháp luật về nhân quyền để đổi lấy những lợi ích về kinh tế, chính trị và cả quân sự.

Có thể đặt cho nhóm quan chức đang ngày càng mở rộng về số lượng "ngả về phương Tây" là "nhóm muốn thay đổi", tuy vẫn chưa nhận ra một dấu hiệu nào thật sự mang tính cải cách từ họ. Nhưng chính nhóm này và ảnh hưởng của họ tại các địa phương và khối cơ quan trung ương đang và sẽ dần có tác động, khiến chính sách bảo thủ trì trệ và áp chế dân chúng của đảng cầm quyền không còn nhiều cơ hội nảy nòi như trong quá khứ.

Trong khi đó, tình hình thế giới trong năm 2017 như giới lãnh đạo Việt Nam dự đoán là "vẫn còn rất phức tạp". Thật ra, với một Tổng thống mới của Hoa Kỳ là Donald Trump, tương lai sẽ không biết đâu mà lường. Có thể tệ hơn, nhưng cũng không loại trừ xác suất có thể tốt lên. Bằng chứng rõ nhất cho đến nay là phần lớn kết quả thăm dò về ông Trump trước khi bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra đều sai lầm, tương tự phần lớn dự doán về thị trường chứng khoán Mỹ sẽ sụt mạnh nếu ông Trump đắc cử Tổng thống cũng sai nốt.

Những biến chuyển kỳ lạ vẫn có thể xảy ra ở Mỹ trong thời gian tới. Trong đó, không loại trừ có cả vài động thái chính trị, ngoại giao, quân sự liên quan đến Việt Nam và do đó có thể khiến thay đổi dẫn đến "bứt phá" cho chính sách đối ngoại ngả nghiêng của giới lãnh đạo Hà Nội.

P.C.D.

VNTB gửi BVN

Nguyễn Thị Từ Huy: Phạm Toàn và Huệ Chi

Phạm Toàn và Huệ Chi
http://boxitvn.blogspot.com/2016/11/pham-toan-va-hue-chi.html

 -- via my feedly newsfeed

Những thảo luận gần đây về vấn đề liên minh và chia rẽ khiến tôi nhớ lại một câu chuyện giữa hai cá nhân: Phạm Toàn và Huệ Chi. Cách đây mấy năm, vào thời điểm khi tôi trở về Việt Nam sau lần du học đầu tiên, một buổi chiều tôi nhận được điện thoại của Phạm Toàn, giọng rất nghiêm trọng: "Tối nay toa bận gì, hẹn gì với ai cũng phải bỏ để đến ngay nhà moi, có việc gấp, quan trọng" (Chắc nghĩ tôi mới ở Pháp về nên Phạm Toàn thỉnh thoảng chua tiếng Pháp vào các cuộc trò chuyện). Tôi nghe giọng điệu cũng cảm thấy là quan trọng, liền trả lời không chần chừ: "Cháu sẽ huỷ mọi cuộc hẹn để đến nhà chú, lúc 8h tối". Lúc đó Phạm Toàn còn thuê nhà ở khu Ciputra. Lúc tôi bước vào căn hộ rộng rãi và bày biện rất hiện đại thì đã thấy Phạm Toàn chỉnh tề ngồi đợi sẵn. Theo phong cách "tây" Phạm Toàn mời tôi chọn đồ uống, tôi chọn uống trà, đúng kiểu Việt Nam. Sau đó Phạm Toàn bắt đầu nói rất dài về Huệ Chi, dĩ nhiên, giờ đây tôi chẳng còn nhớ gì, mà chắc Phạm Toàn cũng chẳng còn nhớ gì. Bởi vì lúc đó ông nói trong giận dữ. Tôi ngồi nghe, nghe với kinh nghiệm của một người từng làm việc vài năm trong một dịch vụ gọi là "Trung tâm tư vấn tâm lý tình cảm" (phải nói rằng những kinh nghiệm làm việc trong thời gian đó thực sự quý giá đối với tôi). Tôi để Phạm Toàn đi hết cơn giận của ông. Rồi cũng đến lúc ông hỏi: "Vậy theo toa thì moi nên làm như thế nào? Moi định cắt đứt với Bô-xít. Moi không chấp nhận được". Tôi xin thêm một ly trà thứ hai, và quyết định nói thực sự những gì tôi nghĩ: "Cháu không thể nói gì về chuyện giữa chú và chú Huệ Chi. Cháu chỉ nghe mỗi mình chú, không được nghe chú Huệ Chi nên không biết thực hư câu chuyện như thế nào. Mà cái version (phiên bản) của chú lại được nói trong lúc chú tức giận như thế thì nó chính xác đến mức nào, cháu không dám chắc. Vì thế, cháu không thể nhận định gì về chuyện riêng giữa chú và chú Huệ Chi. Cháu cũng không thể khuyên chú điều gì, làm sao cháu dám khuyên chú! Cháu chỉ muốn nói một điều thôi: dù chú quyết định như thế nào, dù chú lựa chọn giải pháp nào, thì Bô-xít, trong đánh giá của cháu, và có lẽ cũng là của nhiều người, là một thành quả của công cuộc dân chủ hoá, và nó sẽ đi vào lịch sử báo chí như là một thành quả của nỗ lực của người Việt Nam ở giai đoạn này. Chú cân nhắc điều đó khi lựa chọn giải pháp, cháu chỉ muốn nói như vậy thôi". Ông Toàn gật gật gù gù rồi nói: "Nhưng moi tức không chịu được". Lúc đó tôi hỏi thêm: "Chú có nghĩ rằng đây là một sự hiểu lầm không, chú có nghĩ là có yếu tố an ninh trong tất cả những chuyện này không?" Tôi không còn nhớ câu trả lời, nhưng phản ứng của Phạm Toàn vẫn trong tình trạng giận dữ. Sau đó chúng tôi chuyển sang chuyện khác, chuyện làm sách giáo dục. Rồi tôi ra về, vẫn không biết được Phạm Toàn sẽ quyết định như thế nào, có thể trong giới đấu tranh lại sắp có một xcăng-đan. Vài ngày sau, an ninh gửi đi một email từ một địa chỉ gần giống hệt địa chỉ Phạm Toàn (hình như chỉ thêm vào một chữ cái). Email đó được gửi đến cho tất cả những người có trong danh sách địa chỉ mail của Phạm Toàn, tôi không nhớ nội dung cụ thể, chỉ biết là nó rất tệ, góp phần khắc sâu mâu thuẫn giữa Phạm Toàn và Huệ Chi và đặt Bô-xít vào tình trạng bê bối. Tôi vội gọi cho Phạm Toàn thì được biết đó là địa chỉ giả. Mọi việc lập tức được soi sáng. Cùng lúc đó an ninh liên tục gọi Huệ Chi lên để thẩm vấn. Trong những ngày ấy, ngày nào Phạm Toàn cũng đến nhà Huệ Chi, ngồi chờ cho đến lúc Huệ Chi từ đồn công an trở về, động viên gia đình Huệ Chi. Phạm Toàn viết bài đăng lên Bô-Xít để bày tỏ tình cảm tương ái và tình cảm yêu mến đối với Huệ Chi. Lúc đó mới thấy thật là khó có ai thương Huệ Chi hơn Phạm Toàn. Câu chuyện về đại thể là như vậy. Bô-xít tiếp tục hành trình tranh đấu. Tình bạn của Phạm Toàn và Huệ Chi sâu đậm hơn, bền chặt hơn. Chính Phạm Toàn đã dẫn tôi tới thăm Huệ Chi tại nhà ông. Phạm Toàn và Huệ Chi, từ hợp tác đến tan vỡ có thể chỉ trong khoảnh khắc, nhưng từ tan vỡ đến thương quý và thấu hiểu cũng chỉ trong khoảnh khắc. Trí nhớ của tôi vốn rất tệ, nhưng nó đã lưu giữ câu chuyện này, bởi đó là một câu chuyện đẹp. Thật khó mà quên được một câu chuyện đẹp như thế. (Bài được đăng với sự đồng ý của Phạm Toàn và Huệ Chi???) N.T.T.H. Tác giả gửi BVN

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

Mai An Nguyễn Anh Tuấn: Một bản tuyên ngôn chống giặc nội xâm đầu thế kỷ XVII

Một bản tuyên ngôn chống giặc nội xâm đầu thế kỷ XVII
http://boxitvn.blogspot.com/2016/11/mot-ban-tuyen-ngon-chong-giac-noi-xam.html

 -- via my feedly newsfeed

Trong lịch sử văn hoá-tư tưởng nước ta, có những bản tuyên ngôn nổi tiếng tới muôn đời: đó là bản tuyên ngôn lập quốc đầu tiên bằng "Thiên đô chiếu" do đức Lý Thái Tổ viết, bản tuyên ngôn chiến trận đời Trần bằng "Hịch tướng sĩ văn" tương truyền của Đại vương Trần Quốc Tuấn thảo, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt bằng áng thiên cổ hùng văn "Bình Ngô đại cáo thiên hạ" do vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi chấp bút, bản tuyên ngôn độc lập thời hiện đại của nước VNDCCH do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc… Nhưng, ở đầu thế kỷ XVII, có một bản khải văn cũng mang tầm vóc của một bản tuyên ngôn rất đáng đi vào lịch sử thì còn được ít người biết đến. Đó là bản khải văn có thể gọi tên: "Lấy dân làm gốc"(1). Lần đầu tiên được đọc bài khải văn do nhà văn Hoàng Quốc Hải giới thiệu, tôi thấy sững sờ, và có cảm giác rõ rệt: dường như tác giả đã viết nó cho cả ngày hôm nay nữa! Đây là một luận văn chính trị sắc bén, chứa đựng những suy nghĩ thấu đáo về thời cuộc, tràn trề xúc cảm, chan chứa tình thương dân, hôi hổi tính thời sự, theo tôi rất đáng được chọn đưa vào SGK phổ thông trung học! Vào thời xuất hiện bản khải văn, chính quyền Lê-Trịnh tuy đã tương đối ổn định, trong nước đã tạm yên bình, nhưng cuộc nội chiến với nhà Mạc lên miên suốt mấy chục năm đã khiến cho sản xuất nông nghiệp đình đốn, làng xóm tiêu điều, nhiều năm mất mùa liên tiếp, trong khi đó nạn nhũng nhiễu dân lành của quan lại đã trở thành hiện trạng nhức nhối có nguy cơ làm nổ tung cơ cấu xã hội, đưa cả dân tộc tới chỗ diệt vong… Trước tình hình đó, vào tháng 9 năm 1612, Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Thì (NDT) cùng Giám sát ngự Phạm Trân và các đồng liêu đã dâng lên Bình An vương (tức chúa Trịnh Tùng) bài khải bộc lộ mối quan tâm của các ông trước hiện tình triều chính, đồng thời nêu lên "những việc chính sự cấp thiết phải tu chỉnh để chuyển tai họa thành điềm lành, trên hợp với ý trời, dưới thuận với lòng người". Toàn bộ văn bản bài khải như sau(2): "Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà thôi. Lại nghĩ rằng trời với dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời rồi. Cho nên người giỏi trị nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy họ đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khoá bừa bãi, để cho dân được thoả sống mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách sai dân. Nay Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh) để ý tới dân, thi hành một chính sách cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân đó, thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy. Nhưng kẻ thừa hành thì chưa biết thể theo đức ý của bề trên, chỉ chăm làm điều hà khắc bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, mọi việc nhiễu dân, không điều gì không làm, khiến dân trong nước, con trai thì không có áo, con gái thì không có váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không trông cậy vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu, dân mọn nghèo hèn cho đến sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi. Vì thế, cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở trên không thuận, tai hoạ lũ lụt tràn ngập quá mức thường, chắc là có quan hệ với chính sự hiện nay, há chẳng nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên thế sao? Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người, trên hợp ý trời, và chuyển tai hoạ thành điềm lành, lúa được mùa luôn, người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước nhà từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy"(3). Danh nhân Nguyễn Duy Thì (1571-1651), tác giả chính của bài khải trên, là một trong những nhân vật nổi tiếng của vùng đất Yên Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Sau đây là vài dòng tiểu sử của cụ do một nhà nghiên cứu đúc kết: Năm 1598, khi 27 tuổi, Nguyễn Duy Thì thi đỗ Hoàng giáp. Tên tuổi của ông được khắc trên bia đá tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám… Là một trí thức có vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời Lê Trung Hưng, Nguyễn Duy Thì đã đem hết sức mình cống hiến cho sự ổn định tình hình chính trị đất nước ở buổi đầu thời Lê Trịnh, trong thì giữ yên chính trị, ngoài thì trấn áp phản loạn, khôi phục mối bang giao hữu hảo với phía Bắc, giữ gìn tình cảm truyền thống người Việt với nhà Nguyễn ở phía Nam; một lòng trung quân, ái quốc, thương dân. Ông được người đời nhờ cậy và tôn trọng trong suốt 30 năm; Phủ đường nơi ông làm việc khi về quê, sau khi ông mất, nhân dân sử dụng làm nơi hương đăng thờ phụng, tưởng nhớ công lao của ông suốt hơn 350 năm nay. Nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp ông vào hàng 38 vị phù tá có công lao tài đức của nhà Lê Trung Hưng. Xin trở lại với bài khải. Mở đầu bài khải, bằng sự khôn khéo tỉnh táo của một chính trị gia chuyên nghiệp, cụ NDT đã đưa ra những chân lý không ai chối cãi nổi: "Dân là gốc nước, đạo trị nước là yêu quý dân mà thôi. Trời và dân theo một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời. Vì thế người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy dân đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khoá bừa bãi, để cho dân được thoả sống mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách sai dân". Những điều này-như là cái lẽ Trị quốc An dân sáng tỏ tựa mặt trăng mặt trời mà người cầm quyền của một quốc gia cần lấy làm lòng thì đã được nhiều người trước cụ Nguyễn Duy Thì nói đến, tiêu biểu là danh nhân Nguyễn Trãi… Nhưng ngay ở đoạn mở đầu có tính chất đặt nền tảng như trên, ta có thể thấy trái tim cụ NDT đã rớm máu thế nào, những lời thốt ra không chỉ là kinh điển Nho gia mà chính là đòi hỏi của Lương tri thông thường lẫn đòi hỏi của Sứ mệnh "chăn Dân" được đặt trong tình thế kêu gọi thiêng liêng! Với cái tiền đề nặng đầy lý trí và tràn trề cảm xúc như vậy, cụ NDT đã khéo léo đưa ngưòi cầm đầu QG vào cuộc: "Nay Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh) để ý tới dân, thi hành một chính sách cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân đó, thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy". Tháng 4 năm Quý Tỵ (1593), vua Lê Thế Tông trở về Thăng Long, đánh dấu sự phục hưng của triều Lê nhưng chỉ là trên danh nghĩa, còn thực quyền đã nằm trong tay chúa Trịnh. Còn kể từ năm 1527, khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi triều Lê, chế độ quân chủ Đại Việt lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện, những cuộc tranh giành quyền lực gây nên nội chiến Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước. Khắp nơi, nông dân nổi dậy chống lại chế độ quân chủ áp bức tàn bạo. Vài nhà nghiên cứu lịch sử đã có nhận định khá thống nhất: các vua Lê thời đó đều trẻ người non dạ trước tiền đồ của giang sơn xã tắc, và Trịnh Tùng, muốn giữ vững ngôi vị, ngoài tài năng cai trị và cầm quân, buộc phải trở thành người cứng rắn, quyết đoán và thậm chí tàn nhẫn; với tài năng sẵn có trong thời loạn, ông đã trở thành kẻ gian hùng khuynh đảo triều chính nhà hậu Lê… Những dòng văn khải trên có tác dụng một mũi tên trúng hai đích: vừa để nhấn mạnh cái phần tài năng trị quốc, khẳng định mặt tích cực trong các chính sách của Trịnh Tùng; đồng thời cũng ngầm đem cái sức mạnh nguyên thuỷ của "Thiên đạo" (khái niệm của Lão Tử) diễn đạt theo cách dân dã và Việt hoá là: "lượng cả của trời đất, cha mẹ" để răn dạy bậc cầm quyền; điều đặc biệt có ý nghĩa là cụ đã lồng vào cái "Thiên đạo" xa lạ kia bằng nội dung "Lòng yêu dân"! Là một trí thức tỉnh táo, ông thừa hiểu bản tính của con người là ham lợi, là khát khao quyền lực, là ước nguyện đè nén người khác, như triết gia Hàn Phi đời Chiến Quốc đã khái quát- nhất là chúng lại nằm ở một người đứng trên đầu cả thiên hạ như Trịnh Tùng! Nhưng, trong cái thời loạn đó, cụ NDT cũng hiểu hơn ai hết, cần phải có người có đủ bản lĩnh, tài năng và quyết đoán như Trịnh Tùng để giữ sự bình yên cho Đất nước. Nhà sử học Phan Huy Chú đã viết về Trịnh Tùng như sau: "Ông tính khoan hậu, yêu người, khéo vỗ về tướng sĩ… dùng binh như thần… Ông thực sự làm chúa cầm quyền chính, công lao sự nghiệp danh vọng lừng lẫy…"(4). Dù Phan Huy Chú là sử gia đương thời bắt buộc phải nói sao cho đẹp lòng quân vương, song rõ ràng cũng phải có ít nhiều sự thật trong những dòng sử trên! Và khác với nhà triết học chính trị người Ý N. Machiavelli, người đã khuyên bậc quân vương rằng: "Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy còn cáo thì không chống lại được sói", cụ NDT nước ta, sống sau Machiavelli gần hai thế kỷ, đã khuyên bậc quân vương của mình điều hệ trọng bậc nhất: Cần phải yêu Dân, quý Dân thực sự, bởi lẽ Dân là gốc của nước; và yêu quý Dân chính là cái gốc của đạo trị Dân. Dân không phải là kẻ thù, nên không thể xử sự với Dân như loài dã thú đã làm! Điều này, ta có cảm tưởng cụ NDT đang nói trực tiếp với những người Việt Nam của thế kỷ XXI! Những cuộc khởi nghĩa nông dân, những cuộc đấu đá huynh đệ tương tàn vì quyền lực và đất đai giữa các thế lực chính trị, mối đe doạ ngoại xâm thường trực từ phương Bắc…, tất cả đều nguy hiểm cho an ninh quốc gia, song đều không nguy hiểm bằng hoạ nội xâm do sự thối nát tự bên trong chính quyền, những kẻ "ăn lộc của dân" nhưng lại "đền ơn kẻ cấy cày" bằng sự cướp đoạt trắng trợn mồ hôi nước mắt của dân! Cụ NDT biết rõ điều này, và bằng mọi cách để Trịnh vương cũng phải giật mình cảnh giác. Vì thế, trong tâm trạng bức xúc đến cuồng nộ, tiếp theo, tác giả tờ khải cấp báo và lên án gay gắt tình trạng đe doạ sự tồn vong của Đất nước hiện thời, đó là chính sự hà khắc, quan lại bạo ngược, nạn tham nhũng hoành hành, kẻ "phụ mẫu chi dân" từ trên xuống dưới thì bất chấp đạo lý, luật pháp và vơ vét tận máu mủ dân lành: "Chỉ vì kẻ thừa hành chưa biết thể theo đức ý của bề trên, chăm làm sự hà khắc bạo ngược, đua đòi xa xỉ. Coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã". Những điều đó đã dẫn tới sự bần cùng hóa của tầng lớp "dân đen con đỏ": "khiến cho dân trong nước, con trai thì không có áo, con gái thì không có váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không trông cậy vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu, dân mọn nghèo hèn cho đến sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi". Rõ ràng là, dù cụ NDT không nói ra, song người đương thời và người hôm nay đều có thể hiểu rằng, những kẻ có quyền hành mà tha hoá, tham lam, "phàm những việc nhiễu lạm, không việc gì không làm", "ăn không chừa thứ gì của Dân" (theo cách nói của một người có chức quyền hiện nay), thì chúng chẳng khác gì giặc nội xâm hiểm độc nhất, chúng tàn phá tài nguyên đất nước, huỷ hoại lòng tin của mọi người đối với hệ thống công quyền, thiêu huỷ máu xương của bao thế hệ người đã đổ xuống cho Tổ quốc, bần cùng hoá người dân- những người đang nai lưng làm ra của cải xã hội và đóng thuế để nuôi sống bộ máy cai trị! Nhà nho giàu tâm hồn thi sĩ NDT hiểu thấu nỗi khổ ải cùng cực của người dân lành trước tai hoạ nội xâm đó và hình tượng hoá chúng một cách sinh động trong những dòng văn rung động nỗi xót xa thương cảm lạ thường, hiếm thấy trong văn chương trung đại. Phần cuối của bài khải nói tới luật nhân quả nhỡn tiền, kể ra những thiên tai khủng khiếp mà lũ lụt là tiêu biểu, theo tác giả, đó là ông trời giáng họa xuống nhân gian, bởi trời và người vốn có mối giao cảm với nhau ("Thiên nhân tương cảm", theo quan niệm của Nho giáo). Sử đã ghi lại chuyện "núi Tản Viên bị lở đến hơn 12 trượng", một huyện ở Hà Bắc "trời mưa máu suốt một ngày một đêm"(5)… Những hiện tượng thiên tai này có liên quan đến nhân tai, đến chính sự hà khắc, lục đục, thối nát, dân lầm than đói khổ, oán thán ngút trời. Và trời đã gieo tai họa như để thức tỉnh người cầm quyền cần phải thay đổi đường lối chính sách kíp thời, cần hành động sao để cái ác, cái xấu buộc phải chùn tay, nếu không, Đất nước sẽ phải chịu những hậu quả nặng nề hơn nữa! Tờ khải viết tiếp: "Vì thế cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở trên không thuận, tai họa lũ lụt tràn ngập quá mức thường, chắc là có quan hệ đến chính sự hiện nay, há chẳng nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên thế sao?". Phải chăng, đây cũng là những lời bộc trực thẳng thắn, trực tiếp khuyên nhủ, nhắc nhở chúa (ở đây là Trịnh Tùng): "hãy nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi" của mình! Ai dám bạo gan như cụ NDT? Bạo gan hơn, cụ còn thay mặt đạo trời đạo người vạch ra cái đòi hỏi cấp bách của thời cuộc cho người cầm quyền tối cao: "Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người, trên hợp ý trời, và chuyển tai hoạ thành điềm lành, lúa được mùa luôn, người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước nhà từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy". Kết quả là: "Triết vương (Trịnh Tùng) khen và nhận lời. Năm Bính Thìn (1616) ông được đổi sang Đô ngự sử, rồi lại thăng Tả thị lang bộ Lễ"(6). Điều quan trọng nhất là chúa không chỉ lắng nghe, khen ngợi, thăng chức cho cụ, mà còn từ đó có những hành động cụ thể góp phần thay đổi chính sự. May thay, chính thể của chúa Trịnh Tùng đã không trở thành "con quái vật máu lạnh"-theo cách nói của một triết gia phương Tây là Nietzsche về một nhà nước dửng dưng với mọi tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp dân chúng và chỉ lo giữ cho sự tồn tại của chính mình! Sử cũ ghi rằng, năm sau, tức khoảng cuối năm 1613, "Mùa đông tháng 11, sai triều thần chia nhau đi các xứ xét hỏi nỗi đau khổ của dân gian. Người phiêu dạt thì tha tạp dịch ba năm để về an cư phục nghiệp"(7). Sức mạnh của những lời nói chân thực và chứa đựng chân lý của kẻ sĩ đối với người cầm quyền thật màu nhiệm, tuy không phải là nhiều trong lịch sử xưa nay… Ngày hôm nay, đọc lại và ngẫm nghĩ về bài khải văn trên, chúng ta có thể dễ dàng trực tiếp liên hệ tới thời cuộc nóng bỏng, và có thể dễ dàng chỉ ra các hoạ nội xâm là gì, những kẻ nội xâm là ai… đang tàn phá khủng khiếp Đất nước này! Còn riêng tôi thì nhớ ngay đến một bài viết còn chưa ráo mực cũng của một nhà sử học, nói về 5 điều ngụy biện của những quan chức "vì dân"- nói trắng ra đang là kẻ nội xâm nguy hiểm: "Những người phụ trách các đập thủy điện xả lũ vô trách nhiệm, coi cuộc sống, sinh mạng của người dân như cỏ rác phải bồi thường và phải bị truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc. Những cơ quan lập ra dự án, tạo ra vô số tai ương cho đất nước cũng phải chịu trách nhiệm tương tự. Không thể có một đất nước mà mọi sai lầm đều đổ hết lên đầu dân còn quan chức cứ cò cưa ngụy biện vòng quanh, ngang nhiên ve vẩy những nụ cười thỏa mãn vô lương"(8). Và có rất nhiều bản "khải văn" tâm huyết thời hiện đại nhiều năm qua kêu gọi việc "thi hành chính sách bảo vệ dân" một cách xứng đáng và tử tế đã được dâng lên các "chúa thượng" kiểu mới, liệu chúng đã/sẽ được lắng nghe tới đâu? Đáng mừng là những phát súng lệnh đã khai mở ròn rã để tiêu diệt giặc nội xâm. Mới đây nhất, Phó thủ tướng Chính phủ Trương Hoà Bình đã nói: tình trạng tham nhũng và lãng phí hiện nay đang đe doạ đến sự phát triển của đất nước. Tham ô, lãng phí và quan liêu là kẻ thù của nhân dân, mà đấu tranh chống tham ô, lãng phí là đấu tranh chống "kẻ địch bên trong" (cũng có nghĩa là nội xâm)(9). Toàn dân Việt trong nước và nước ngoài đang chờ đợi, và hy vọng. Hà Nội, đầu tháng 11. 2016 N.A.T. __________ (1) Tâu là lời dâng lên vua, khải là lời dâng lên chúa. (2) Hoàng Văn Lâu & Ngô Thế Long dịch từ chữ Hán. (3) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb. Văn hoá Thông tin, HN, 2000. Tr. 335-336. Bản khải này cũng được chép lại đầy đủ trong bộ sách đồ sộ của Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007. Tr. 320-321. (4) Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 251. (5) ĐVSKTT, Sđd, Tập III, tr. 335. (6) Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 321. (7) ĐVSKTT, Sđd, tr. 337. (8) Ngụy biện ác tàn - Hà Văn Thịnh, dẫn theo vuongthuc.wordpress & http://chieulang.com.vn/chieu-lang/tin-trang-chu/chi-tiet/nguy-bien-ac-tan-ha-van-thinh-9891.html (9) Báo cáo tại Hội nghị lấy ý kiến cho dự thảo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá 10) về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tổ chức sáng 27.10.2016 tại Hà Nội. Tác giả gửi BVN.

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2016

Đoan Trang: Tình hình biển miền Trung: Thị trường bế tắc

Tình hình biển miền Trung: Thị trường bế tắc
http://www.phamdoantrang.com/2016/11/tinh-hinh-bien-mien-trung-thi-truong-be.html

 -- via my feedly newsfeed

Trong những ngày qua, một số đại diện của nhóm Green Trees (trước là Vì Một Hà Nội Xanh) đã đến Hà Tĩnh và Nghệ An để trao tận tay báo cáo "Toàn cảnh thảm họa môi trường biển miền Trung" cho ngư dân – những người chịu thiệt hại nặng nề nhất từ thảm họa này.

Đây là những đại diện cho hơn 10.000 thành viên của Green Trees, và cũng là đồng tác giả của báo cáo. 

Tình hình môi trường ở các tỉnh miền Trung không có gì tiến triển. Mặc dù các quan chức, chẳng hạn như Bộ trưởng Tài nguyên-Môi trường Trần Hồng Hà, vẫn nói rằng "biển đã sạch", nhưng ngư dân không nhận thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ điều đó. Hàng chục chiếc ghe vẫn phủ vải nằm im trên bãi. Ngư dân gần như đã bỏ biển.

Ông Lê Xuân Thế (xã Kỳ Lợi, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cho biết, từ khi thảm họa xảy ra (được tính là từ ngày 6/4/2016), ông chỉ đi biển có… ba lần, mà đi là do quá nhớ biển, nhớ nghề, chứ không phải do còn hy vọng đánh bắt được cá. 

Một vài ngư dân khác thỉnh thoảng cũng đi biển, nhưng số lượng hải sản đánh bắt được rất ít, theo ghi nhận của Green Trees. Họ đã phải bắt đến cả cá con, mực con, điều này đe dọa khả năng tăng trưởng và phục hồi của hải sản. Ở trong một ghe, giữa lèo tèo vài con cá, Green Trees trông thấy một cá mập con, dài chỉ chừng 60cm.



Thị trường tê liệt

Tuy nhiên, vấn đề nghiêm trọng nhất chưa phải là không còn hải sản để đánh bắt, mà là hải sản mang về hầu như không bán được vì không còn ai tiêu thụ. Thỉnh thoảng, có một số tư thương vẫn đến mua của bà con, nhưng họ ép giá rất mạnh. Ví dụ như ghẹ, trước khi có thảm họa, giá có thể lên tới 400-500.000 đồng/kg thì giờ chỉ còn trên dưới 100.000 đồng. Số hải sản đó được tư thương chuyển đi đâu sau khi mua và xử lý như thế nào, cũng không ai biết.

Nhìn bãi biển vắng tanh vắng ngắt và các mâm cơm không có cá, các thành viên của Green Trees – tác giả bản báo cáo về thảm họa Formosa – hiểu rằng: Nghề đánh bắt, kinh doanh hải sản ở các vùng biển một thời rất giàu tôm cá, nay đã chết. Nghề này chỉ có thể sống lại khi thị trường hải sản đã được khơi thông, mà thị trường hải sản thì chỉ có thể được khơi thông khi người mua, người bán tin chắc là biển đã sạch. Niềm tin đó, hiện không có mảy may.

Không chỉ nghề đánh bắt hải sản, Green Trees ghi nhận rằng các nghề khác có liên quan đến biển như kinh doanh du lịch, làm muối, làm sỏi… cũng đều bế tắc. Dân bỏ nghề, ruộng muối bỏ không, nhà nghỉ, khách sạn ế khách. 



Bốn tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng của thảm họa đều là địa phương có biển, tỷ lệ sinh rất cao (vì đặc thù của nghề đi biển là tiêu hao sức lao động, cần lao động nam). Mỗi hộ gia đình đều có 6-7 con, nhà nào hiếm lắm thì 3-4 con. Thảm họa biển miền Trung làm số thanh niên trai tráng thất nghiệp, bỏ biển tăng vọt. Họ ở nhà chơi cả ngày. Có một số tìm đến lối thoát khác, là theo tàu đánh bắt xa bờ ở miền Nam, hoặc trốn sang Lào, Campuchia, Thái Lan làm thuê (nhập cư bất hợp pháp). 

Hoàng Tiến Sỹ, một ngư dân trẻ, là người đã từng lái tàu đưa các tác giả báo cáo ra gần nơi Formosa xây cảng nước sâu Sơn Dương vào tháng 8 vừa qua. Em cho biết đó là lần đầu tiên em đi biển kể từ xảy ra thảm họa. Mới đây, lúc nhóm gặp lại em là lúc em đang ngồi chơi trước cổng nhà. Em nói: "Mọi việc vẫn thế", và tỏ ra rất vui khi được Green Trees ký tặng một cuốn báo cáo.

Bồi thường không thỏa đáng

Liên quan đến khoản bồi thường 500 triệu USD của Formosa, chính quyền xã Kỳ Lợi đã tiến hành thống kê thiệt hại của người dân theo Quyết định 1880/QĐ-TTg ngày 19/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng chưa có hộ nào được chi trả gì. Xin lưu ý: Ngay cả khi được bồi thường, thì thời gian tính bồi thường thiệt hại tối đa cũng chỉ là sáu tháng, từ tháng 4/2016 đến hết tháng 9/2016.

Còn ở huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh), chính quyền đã và đang trả tiền bồi thường cho dân. Tuy nhiên, phần lớn cư dân bị áp một mức chung là 17.460.000 đồng cho cả sáu tháng. Trong khi đó, theo kê khai của ngư dân, trước khi xảy ra thảm họa, thu nhập của họ đạt trung bình 2 triệu đồng/ngày.

Mức bồi thường không thỏa đáng đang gây bức xúc cho rất nhiều người dân.



Bản báo cáo "Toàn cảnh thảm họa môi trường biển" của nhóm Green Trees được xuất bản vào đầu tháng 10, bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Đài Loan. 

Green Trees đã gửi báo cáo đến Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, và hai bộ Tài nguyên-Môi trường, Thông tin-Truyền thông, nhưng không nhận được phản hồi nào từ đó đến nay.

Bài và ảnh: Green Trees, tháng 11/2016

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

Trương Duy Nhất : Chuyện tị nạn giữa thủ đô tị nạn

Chuyện tị nạn giữa thủ đô tị nạn
http://rfavietnam.com/node/3564

 -- via my feedly newsfeed

Tị nạn, không tị nạn Không hiểu sao, ai cũng nghĩ mình tị nạn. Từ hôm ở DC đã vậy. Qua Cali càng hỏi tợn hơn. Tội, nhiều người còn thẳng thừng "bước đầu khó khăn, có gì cứ nói, mỗi người xúm giúp một tí". Có quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng tưởng vậy khi hỏi tôi "Anh qua đây sống vùng nào?". Thấy cái tình của bà con mà cảm động. Nhiều người, xa lạ đấy, đã gặp, biết gì đâu, vậy mà quan tâm lo lắng như thể thiết thân, còn hơn ruột rà. Cảm động. Nhưng đấy không phải là cách mình lựa chọn. Nếu chọn đi, có lẽ tôi đã rời ngay từ trước khi... kết thúc điều tra. Không hiểu sao khi ở B14, đến 3 lần khi lấy cung gã điều tra viên hỏi "anh Nhất có ý định ra nước ngoài...?". Lần đầu, tưởng hắn đùa khích mình, tôi ngơ không nói gì. Lần sau vẫn câu ấy, tức khí đưa ngón tay trỏ di di qua lại trên trán "Hình như trong cái đầu tôi chưa bao giờ, dù chỉ manh nha một... ý tưởng thế!". Xong, chỉ tiếp vào thằng đang hỏi "Nếu có, tôi nghĩ tìm ngay trong chính lực lượng của các anh!". Ra tù, nghe vợ con kể: 2 lần, người của Đại sứ Mỹ điện thoại nêu nhã ý muốn gặp trực tiếp để thăm hỏi và... "trao đổi". Chẳng biết thực hư gì, nhưng khi ấy tôi và gia đình chọn cách im lặng, tránh tiếp xúc. Tuần đầu ở Toronto (Canada), Phạm Ngọc Cương cũng dặm "Em hỏi thật anh nhé, anh nghiêm túc suy nghĩ đi. Nếu chọn ở lại, sáng mai em chở lên Ottawa, vào Bộ Ngoại giao". Thương Cương quá, chỉ cười "cậu tha cho tớ về, lâu lâu có tiền mua cho cặp vé cho tớ bay qua nhậu trận chơi, vậy sướng rồi!". Mỗi người một chọn lựa. Thậm chí nhiều khi không thể, và không có quyền lựa chọn. Như Điếu Cày đấy, anh có chịu ký tá gì đâu nhưng vẫn bị tống ra sân bay đẩy đi. Và nhiều trường hợp khác, trước anh. Hoặc như Trần Huỳnh Duy Thức bây giờ. Đi hay ở lại, đều là những chọn lựa khó khăn và đau đớn. Đến Bolsa, tránh điều gì? Điếu Cày đón tôi về "nhà". Một góc phố nhỏ, giữa trung tâm "thủ đô tị nạn" Little Sài Gòn. Cái phòng trọ chỉ đủ kê vỏn vẹn một chiếc giường, cái kệ chén bát và một chiếc bàn viết xộc xệch. Thương anh quá! Điếu Cày hiểu tôi, nên chẳng cần dặn nhiều. Nhưng quá nhiều người lo cho mình. Trăm sự, bởi ai cũng nghĩ Trương Duy Nhất sang tị nạn. Đến lúc biết tôi qua Mỹ chỉ để chơi, no tị nạn, lại càng thương và đâm... sợ cho tôi. Sợ khó khăn khi trở về, nên nhiều người khuyên "Về Bolsa, ông nhớ tránh 3 điều: tránh cờ vàng, không dùng từ "giải phóng", và đừng đụng Việt Tân". Thật tình, ngay từ khi qua Mỹ những lần trước, khi vẫn còn mang cái thẻ nhà báo quốc doanh, tôi đã về ngủ với... cờ vàng. Ơ. Họ cũng là người Việt. Đỏ - vàng chi cũng Việt. Sao phải tránh? Sử là vậy. Thắng thua hay vàng đỏ chi vẫn là lịch sử. Và như thế mới là sử. Vì thế, tôi đếch ngại điều này. Mỗi người một chọn lựa. Và tôi tôn trọng họ. Muốn người ta tôn trọng mình thì mình cũng phải biết tôn trọng họ. Với tôi, đỏ vàng - vàng đỏ chi cũng là sử Việt. Rồi cũng phải đến lúc nhìn lại một cách công tâm về từng thời giá trị của tất cả các loại cờ quạt, cho dù vàng hay đỏ. Dù sao, đó cũng là một thể chế thực tồn tại mấy chục năm trên nước Việt. Là thực tế một thời của nửa phần nước Việt đấy thôi! Còn chữ "giải phóng", có lẽ nhiều người đụng, riêng tôi khó. Hôm ở DC, nhiều người đã ngạc nhiên khi thấy tôi viết câu này, sau cuộc gặp với ngài Dan Southerland, Phó tổng giám đốc chương trình Đài Á châu tự do (RFA): "... Ông là cựu phóng viên chiến trường Việt Nam. Một trong nhóm ký giả ngoại quốc cuối cùng còn ở lại, chứng kiến sự kiện Sài Gòn 30/4/1975". Tôi không dùng chữ "giải phóng", cũng không dùng cách gọi "giờ phút cuối cùng của chính quyền Sài Gòn". Tôi viết, đó là "sự kiện Sài Gòn 30/4/1975". Bởi thắng thua gì, đỏ vàng chi cũng là lịch sử. Đó là sự kiện lịch sử chung của cả hai phía, của người Việt. Lịch sử, đâu phải riêng của phe nào. Với Việt Tân. Thật tình suốt 36 ngày ở Mỹ, không thấy một "đồng chí" Việt Tân nào chào hỏi, mời hẹn gì. Tiếc là không thấy, nếu có cớ sao lại phải chối từ? Ai ngại, với tôi không! Cứ cho là họ khác ta, thậm chí chống ta, sao không một lần ngồi xuống cùng họ, nghe họ nói gì, họ nghĩ sao? Sinh thời, ông Thanh (Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính trung ương, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng - có lần thổ lộ với tôi rằng: Mình mà có quyền, sẽ mời hết tất tật các tổ nhóm chống đối, phản động chi đó ở hải ngoại. Chừng mươi hoặc vài mươi nhóm chứ mấy. Mời hết về, ngồi... nhậu với nhau đàng hoàng, nghe xem họ phản đối cái gì, chống cái chi? Làm được chứ, tại sao không? Cũng như cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam đâu phải của riêng đảng Cộng sản, hay một phe phái, tôn giáo nào... Vậy thì hà cớ gì cứ Việt Cộng - Việt Tân gây thù chuốc oán? Đúng ra, tôi suýt gặp Việt Tân một lần. Hôm ở DC, lên xe chạy một đoạn rồi mới nghe cô lái xe bảo "anh Lý Thái Hùng, Tổng Bí thư Việt Tân điện, nói định chào anh Nhất một tiếng mà anh đi nhanh quá". Thì ra, tôi và Tổng Bí thư Việt Tân suýt gặp nhau. Cũng hơi... tiếc! Cho dù cũng chưa hề gặp, chưa biết Lý Thái Hùng là ai. Thực ra, giữa phố Bolsa ấy, tôi cũng chả biết ai là Việt Tân, ai Việt Cộng? Nghe nói bên ấy, Việt Cộng cũng đầy! Mà biết để làm gì nhỉ? Bởi với tôi, Cộng cũng như Tân. Hơn nửa thế kỷ sống cùng Cộng sản. Bố tôi là Cộng sản. Nhưng tôi có Cộng sản đâu. Không Việt Cộng, cũng chẳng Việt Tân. Vì thế, tôi ngồi được tất. Cộng - Tân gì, nhậu tốt cả. Bolsa, với tôi, là đến với người Việt. Thoải mái vậy thôi, như anh bạn đồng nghiệp của tôi ở nhật báo Người Việt cười vui rằng: Chẳng khác chi ở nhà, đến nỗi hơn bốn chục năm rồi, mình chỉ sài tiếng Anh khi... ra khỏi nước Mỹ! Giản đơn vậy. Và cũng nhẹ nhõm vậy thôi. Chẳng ai dại chi, khoác trên mình cái áo váy đỏ lòm như nhà cậu Hùng Cửu Long kia đòi "hoà hợp hoá giải" giữa phố Bolsa. Có lẽ, sau sự kiện này, ngoài 3 điều tránh như trên, sẽ phải thêm một điều tránh thứ tư nữa: tránh mặc áo (váy) màu đỏ sao vàng tới phố Bolsa. "Ka ka ka" (nhại lời cậu Hùng Cửu Long tưng tửng), nhưng chớ "hoà hợp hoà giải" kiểu ai - nớp - du thế mà ăn đòn khổ thân.

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Không có TPP, xuất khẩu của Việt Nam ảnh hưởng thế nào? [feedly]

Không có TPP, xuất khẩu của Việt Nam ảnh hưởng thế nào?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-will-vn-affect-trump-s-protectionism-tendency-nn-11222016215100.html

 -- via my feedly newsfeed

Tổng thống đắc cử Donald Trump hôm 21/11/2016 khẳng định Hoa Kỳ sẽ không theo đuổi Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương(TPP), đây là một trong những việc mà ông làm ngay sau khi nhậm chức vào ngày 20/1/2017. Trường hợp không có TPP cùng với khuynh hướng chống tự do hóa thương mại của ông Trump, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?

Mỹ không thể quay lại làm dệt may

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, năm 2015 hàng hóa Việt Nam bán qua Mỹ trị giá gần 33,5 tỷ USD. Năm ngoái Hoa Kỳ cũng là thị trường mà Việt Nam đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 25,7 tỷ USD.

Trong 33,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam qua Hoa Kỳ năm 2015,  sản phẩm dệt may dẫn đầu với với giá trị xuất khẩu 11 tỷ USD, kế tiếp là giày dép trên 4 tỷ USD, các mặt hàng vali-ô dù-cặp và túi xách trị giá 1,18 tỷ USD, sản phẩm gỗ gần 2,17 tỷ USD, riêng nhóm sản phẩm điện tử, máy điện toán và linh kiện cũng đạt trị giá gần 2,9 tỷ USD.

Ông Trump có lôi kéo công ăn việc làm về thì cũng không thể nào lôi về những ngành mà Việt Nam xuất khẩu lớn như dệt may, da giày. Bởi vì bản thân nước Mỹ không còn sản xuất những thứ đó nữa.
-Diệp Thành Kiệt

Việt Nam từng kỳ vọng tăng kim ngạch xuất khẩu từ 17% tới 30% theo lộ trình dỡ bỏ thuế quan khi TPP có hiệu lực đầy đủ. Nay có dấu hiệu rõ rệt TPP không còn hiện thực, ít nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông Donald Trump. Ngoài ra vị Tổng thống đắc cử còn bày tỏ khuynh hướng kinh tế hướng nội, hứa hẹn đưa một số ngành sản xuất mà doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư ở nước ngoài trở về Hoa Kỳ, để tạo thêm công việc làm cho người dân Mỹ.

Trao đổi với Nam Nguyên vào tối 22/11, ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội da giày túi xách Việt Nam nhận định:

"Ông Trump có lôi kéo công ăn việc làm về thì cũng không thể nào lôi về những ngành mà Việt Nam xuất khẩu lớn như dệt may, da giày. Bởi vì bản thân nước Mỹ không còn sản xuất những thứ đó nữa, đã dừng sản xuất lâu rồi. Có thể khẳng định nước Mỹ sẽ vẫn tiếp tục mua những sản phẩm dệt may, da giày từ Việt Nam và thế giới."

Theo ông Diệp Thành Kiệt, nếu Hoa Kỳ thay đổi chính sách, tạm gọi là bảo hộ, thì điều đó đối với Việt Nam cũng giống như tình trạng hiện nay mà thôi. Giả dụ TPP có hiệu lực thì Việt Nam sẽ có lợi thế lớn đối với đối thủ cạnh tranh là Trung Quốc. Trong tình hình hiện nay lợi thế cạnh tranh của Việt Nam ngang bằng với Trung Quốc, nhưng Việt Nam vẫn tăng được thị phần vào nước Mỹ. Điều này có nghĩa là nếu nước Mỹ bảo hộ thì sẽ ảnh hưởng toàn bộ thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam.

Ông Diệp Thành Kiệt nhấn mạnh:

"Vấn đề làm cho chúng tôi quan tâm là ông Trump có làm cho nền kinh tế Mỹ vươn lên hay không thôi. Bởi vì thị trường Mỹ lớn hay là nhỏ là do nội lực của nền kinh tế Mỹ, nếu ông ấy làm cho nền kinh tế Mỹ tốt hơn, giàu có hơn người dân tiêu thụ nhiều hơn, thì chúng tôi không lo việc họ tiếp tục nhập quần áo, da giày của chúng tôi. Còn nếu kinh tế Mỹ ảm đạm thì cho dù có TPP cũng chưa chắc tạo ra sức tăng về nhu cầu nhập khẩu."

Trao đổi với chúng tôi vào tối 22/11, Giáo sư Vũ Văn Hóa phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho rằng, dù là ông Trump hay ai thì cũng không thể xóa bỏ tự do mậu dịch, nếu không có TPP thì lâu dài sẽ ảnh hưởng mức tăng trưởng xuất khẩu kỳ vọng của Việt Nam. Nhưng Việt Nam vẫn còn nhiều thị trường xuất khẩu khác và nhiều hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Giáo sư Vũ Văn Hóa nhấn mạnh:

Sản xuất mây tre lá xuất khẩu ở Hà Nội, ảnh minh họa. AFP

"Ông Donald Trump đã tuyên bố như thế trong lúc tranh cử, khi đắc cử ông ấy cũng phải giữ lời hứa không công nhận Hiệp định TPP này. Nhưng tôi nghĩ Hoa Kỳ trước sau cũng sẽ tham gia Hiệp định này vì ông Trump không thể làm Tổng thống Mỹ quá 8 năm được… Trong quá trình ấy, nếu Việt Nam thấy là Hoa Kỳ có thể cung cấp đủ những sản phẩm trước đây từng nhập của Việt Nam và các nước khác, thì Việt Nam vẫn có thể tìm các thị trường khác và các thị trường khác cũng vẫn có thể tìm đến Việt Nam.

Ngay với một nước cung cấp tự túc cũng có thể trao đổi với nhau giữa ngành này ngành khác, bản thân trong một ngành cũng có cạnh tranh. Cho nên những ngành nào có năng suất lao động cao phù hợp với nhu cầu thị trường thì vẫn thắng lợi. Tôi nghĩ là không bao giờ mất đi mậu dịch tự do. Cũng không bao giờ lại mất đi bất cứ một ngành sản xuất nào khi nó cần thiết cho đời sống xã hội."

Tiếp tục cải cách và hội nhập

Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào năm 2001, năm 2007 Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, Hoa Kỳ là một trong các nước thành viên sáng lập. Tổng thống tân cử Donald Trump có khả năng dừng việc Quốc hội phê chuẩn TPP và yêu cầu đàm phán lại với 11 nước tham gia TPP. Ông Trump mô tả TPP là thảm họa tiềm ẩn đối với Hoa Kỳ.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nói một câu tôi cho rằng phù hợp với những điều chúng tôi suy nghĩ: cho dù có TPP hay không thì Việt Nam vẫn tiếp tục hội nhập.
-Diệp Thành Kiệt

Từ chính sách hội nhập sâu rộng, trong 20 năm qua Việt Nam đã tăng kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ gấp 13 lần. Từ mức vài trăm triệu USD, trước khi khi ký Hiệp định thương mại song phương 2001, tăng lên 33,5 tỷ USD trong năm 2015.

12 nước TPP chi phối 40% nền kinh tế thế giới, bao gồm Việt Nam, Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Brunei, Chi Lê, Peru, Mexico, Canada. TPP có thể trở thành hiện thực hay không hoàn toàn phụ thuộc vào Hoa Kỳ là nước chiếm khoảng 62% GDP toàn khối, còn Nhật Bản chiếm tỷ lệ 17%. TPP có điều khoản qui định phải có ít nhất 6/12 nước thành viên phê chuẩn và có GDP gộp chiếm 85% tổng GDP toàn khối, thì Hiệp định mới có hiệu lực. Như vậy trước thực tế TPP không hiện thực thì Việt Nam cần điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu như thế nào, đặc biệt trong các sản phẩm chủ lực như dệt may, da giày. Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội dệt may thêu đan TP.HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội da giày túi xách Việt Nam nhận định:

"Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nói một câu tôi cho rằng phù hợp với những điều chúng tôi suy nghĩ: cho dù có TPP hay không thì Việt Nam vẫn tiếp tục hội nhập. Có nghĩa là muốn vào thị trường Mỹ, nếu có TPP thì chúng ta thuận lợi hơn. Không có TPP thì chúng ta phải tìm các giải pháp để cạnh tranh.

Cho nên chúng tôi nghĩ rằng, những chính sách chung về hội nhập của Việt Nam và những chính sách để phát triển mở rộng thị trường và nâng cao tính cạnh tranh của các ngành nghề chúng ta đang có thế mạnh sản xuất, kể cả dệt may, kể cả da giày, thì vẫn phải tiếp tục chứ không phải vì chuyện không có TPP mà dừng lại. Tuy nhiên những thứ đầu tư nhằm vào thị trường Mỹ không thôi, thì cần phải cân nhắc. Tôi muốn lập lại cân nhắc tức là xem rằng với chính sách của Tổng thống Mỹ công bố trong thời gian tới, nó có làm cho nước Mỹ thịnh vượng hơn hay không. Nếu nước Mỹ thịnh vượng thì việc chúng ta xuất khẩu vào Mỹ vẫn còn tốt, không đáng ngại…"

Theo giới quan sát, không chỉ riêng Việt Nam mà cả thế giới đang nín thở theo dõi 100 ngày làm việc đầu tiên của Tổng thống đắc cử Donald Trump kể từ 20/1/2017. Bởi vì nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn đứng đầu thế giới và mọi quyết sách của chính phủ mới có thể tạo ra những ảnh hưởng hết sức lớn lao.

Fwd: tuesy

Nguồn diendan
...Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo, như những tiếng dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã muôn đời vĩnh quyết...


Tuệ Sĩ,điệp khúc dương trần


Đặng Tiến



tue-siTrước đây, mạng Diễn Đàn có giới thiệu tập thơ song ngữ Những điệp khúc cho dương cầmRefrains pour piano – của Tuệ Sĩ, do bà Dominique de Miscault dịch ra tiếng Pháp, và minh họa trang nhã. Lúc đó, tác phẩm vừa mới in xong.
Hôm nay, tập thơ đã được phát hành và ra mắt dưới dạng một buổi tọa đàm tại Thành Phố Hồ Chí Minh, khách sạn Legend, ngày 27-9-2009, với sự hiện diện của tác giả và dịch giả.
Ngoài ra, chúng tôi được biết sách hiện có bày bán nhiều nơi tại Paris, giá 10 €uros.
Vậy xin trở lại, giới thiệu thi phẩm căn cơ hơn :
Tuệ Sĩ là bậc danh sĩ cao tăng, đã trọng nhiệm nhiều chức vụ trong hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam. Trong và ngoài nước nhiều người biết danh và ái mộ, qua những trầm luân mà ông chịu đựng non nửa thế kỷ, chúng tôi không nhắc lại nơi đây, vì ai muốn truy tìm thì rất dễ.
Tuệ Sĩ còn là nhà thơ, nhiều người biết danh, nhưng ít người được đọc, vì thơ ông ít được phổ biến. Mới đây, trong nước, nhà xuất bản Phương Đông đã ấn hành tập thơ Những điệp khúc cho dương cầm, song ngữ Việt-Pháp đối chiếu, do Dominique de Miscault, nữ họa sĩ người Pháp, chuyển ngữ và trình bày, minh họa, bà gọi là « biểu cảm đồ họa » (expressions graphiques). Trang bên trái là văn bản Việt-Pháp nối tiếp, trang bên phải là hình cách điệu nhà sư đang lướt ngón tay trên phía dương cầm.
Sách gồm 23 bài thơ ngắn, trình bày trên 53 trang, khổ vuông 21 x 21 cm, giấy tốt, in đẹp và trình bày trang nhã.
Điều đáng mừng là độc giả Việt Nam và thế giới có dịp tiếp cận với thơ Tuệ Sĩ, trong niềm đồng cảm nhân loại, qua thi ca và nghệ thuật. Trong lời tựa, bà De Miscault kể lại :
« Tôi được hạnh ngộ với Tuệ Sĩ và người thân từ mùa xuân 2003.
Chúng tôi đã học tập phơi trải và trao đổi hai thế giới, diễn dịch những cảm xúc, đồng thời là dấn thân. Tôi không phải phật tử cũng không phải kẻ tu hành, lại không biết tiếng Việt, nhưng thơ Tuệ Sĩ thì đã gặp đâu đó tại châu Âu già cỗi. Đó chẳng phải là những khoảng hư không mà các tác gia thần bí đã trải nghiệm ? Kinh nghiệm phiêu du trong bóng đêm và tĩnh lặng, cũng như những tâm hồn khắc khoải, vô vọng truy tầm lời giải đáp cho những hy sinh, dù tự nguyện hay cưỡng chế ? »
Bà tiếp xúc với thơ Tuệ Sĩ nhờ việc lược dịch của một người Pháp được Tuệ Sĩ duyệt lại.
« Tôi cố gắng nắm bắt nội dung qua những hình ảnh, và không gian sống của Tuệ Sĩ như tôi được trông thấy và đã khai thị cho tôi. Tôi chọn những từ ngữ và ảnh tượng đơn giản nhất, đã giản lược và tát cạn tối đa thi pháp để tập trung vào cuộc phiêu lưu thần bí của nhà sư mệt mỏi vì đời sống và những truy tầm vô vọng…
Vô vọng hay không, vẫn là câu hỏi. Buông thả theo dòng đời.
Dương cầm và tịch lặng là thần giao giữa hai lục địa giữa chúng tôi.
Nơi đây không còn là hoài cảm hay xúc cảm, mà là phân tích khô khan cõi dửng dưng.
Tôi hân hoan được tiếp tục chia sẻ, và trong dài lâu tính nhẹ nhàng tuyệt đối của đời sống. »
Bài tựa này đã được Hạnh Viên dịch ở trang 7, tôi dịch lại để đóng góp.
Một cơ duyên khác, là với kỹ thuật điện tử hiện đại, toàn bộ công trình của TS – Dominique de Miscault và nhà xuất bản Phương Đông được đưa lên lưới, để người đọc, Việt hay ngoại quốc, khắp năm châu bốn biển đều có thể thưởng lãm. Năm mươi trang giấy không phải là công trình to tát gì, nội dung cũng không phải chuyện khai sơn phá thạch, nhưng là một sự kiện văn học, như cơn gió bất ngờ đưa đóa lan rừng ra ánh sáng.
Tuệ Sĩ không phải là người tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm tri kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông xuất hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương bông sứ chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm vui chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên đường, buổi chiều, « cười với nắng một ngày sao chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan », câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời ca ngợi.
Thơ, thơ gì đi nữa, thì trước tiên phải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ của ai đi nữa thì cũng mang sử tính. Thơ thiền sư làm bằng ngôn ngữ hàng ngày vẫn vang âm xã hội và lịch sử.
Ví dụ bài cuối :
Giăng mộ cổ
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.
Ý nghĩa chính xác của bài thơ là gì ta không nên giải thích chân phương. Nhưng từ ngữ thì rõ ràng là trầm tích đau thương của con người trong lịch sử. Bà De Miscault dịch hay và thoát (xem Trên kệ sách của mạng Da màu). Tôi vẫn táy máy dịch lại xem như góp một nốt đàn vào bản hợp tấu :
Sur les tombes antiques
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J'aime ô que j'aime les espaces innocents
Trầm tích lịch sử còn dư vang rõ hơn trong bài này ;
Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Tr. 34
A la frontière
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Thơ gì, thơ ai, thơ nước nào, trong ngôn ngữ vẫn là một thứ ngoại ngữ ; người đọc một bài thơ trong tiếng mẹ đẻ là đã dịch bài thơ ấy ra ngôn ngữ của riêng mình. Gọi là tiếng lòng.
Trong nghề dạy học và việc bình luận văn chương tôi có đôi kinh nghiệm về việc dịch thuật và thông ngôn này. Gặp những bài thơ Tuệ Sĩ việc giảng luận có phần trắc trở. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ chung là tiếng Việt, nhưng tương quan giữa người nói và lời nói thì khác nhau. Khi Tuệ Sĩ viết đâu đó « Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang » thì ông không chỉ nói về màu áo, cũng không nói về ngọn đồi, mà phản ánh tâm linh trong một thế giới khác. Đưa lời thơ Tuệ Sĩ vào ngôn ngữ thế tục e dễ thành dung tục.
Thơ bao giờ cũng phản ánh ba tính cách : môi trường xã hội trong lịch sử ; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại ; và tác giả, qua đời sống hàng ngày ; nhưng ở Tuệ Sĩ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phưong và đơn phương.
Đầu thế kỷ XX giới văn học tây phương đưa ra khái niệm «  thơ thuần túy », và nghệ thuật nguyên chất theo nghĩa của hóa học : thực thể nguyên chất đối lập với những thực thể tạp chất « impur », có lẫn lộn nhiều ngoại tố. Nghệ thuật nguyên chất là kiến trúc của ngôn ngữ : một dạo khúc dương cầm, một tranh tĩnh vật, một bài thơ đẹp. Người thưởng thức không pha lẫn vào đó những kỷ niệm, buồn vui riêng tư, nhất là những thành kiến lịch sử, chính trị. Yêu một chân dung phụ nữ không phải vì nó hao hao giống một người bạn cũ.
Trong nghệ thuật, dân tộc là một tạp chất.
Tôi nghĩ khi Tuệ Sĩ đặt tên Những điệp khúc cho dương cầm, và làm những bài thơ mô tả tiếng dương cầm, là ông muốn cho tiếng thơ mình trong trẻo, thuần khiết « trong như tiếng hạc bay qua ». Do đó, bình giải thơ Tuệ Sĩ là tạo cơ nguy gây tạp âm không phải lẽ và không phải lúc. Bài viết này vẫn mang tạp âm là ngoài ý muốn của chúng tôi.
Lấy một ví dụ ngoài đề, cho thông thoáng. Nhà thơ Phạm công Thiện, thời trẻ, có lúc tu tại một Phật Viện Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại mấy hôm, khi về Chùa, anh có thơ :
Mưa chiều thứ bảy, tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc thường đọc cho chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng chưng hửng khi nghe Phạm Công Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng Pháp :
Je suis le Retour
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L'arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã hiểu chung chung : thứ bảy là trước chủ nhật, cây khế là cây khế, ngọn đồi là ngọn đồi, nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội hàm câu thơ không phải chỉ có vậy.
Nhưng nghĩ cho cùng, ai làm sao hiểu hết một câu thơ, kể cả tác giả ?
Và cách tiếp cận thơ Tuệ Sĩ của bà De Miscault biết đâu là cách hay nhất, như câu tiếng Pháp không biết của ai « la voix du cœur est la voie au cœur » : lời trái tim là lối đến con tim.
Đọc thơ Tuệ Sĩ. Bằng trái tim. Nỗi Nhớ
Màu tối mù lan vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt
Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu ?
Cánh mộng phù du
Tr. 18
Les ténèbres envahissant les pierres du mur
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m'en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l'ouragan
Où suis-je ?
Frêles sont les ailes de l'éphémère
Tình người :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Tr. 50
Sur mes chagrins enfumés, je revis
L'Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l'origine la parole a été retenue
Comme l'océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l'Homme, j'ouvre mes mains au firmament étoilé
Trần thế :
Theo chân kiến
Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
Thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở
Tr. 46
Traces de fourmi
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s'amoncellent
Silences entre silences
J'accueille la terre respirante.
Thơ Tuệ Sĩ cô đúc, hàm súc, uyên áo. Người đọc không quen cho là khó hiểu, vì tác giả không đề cập đến một đề tài nào chính xác, không miêu tả không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo, như những tiếng dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã muôn đời vĩnh quyết.
Thỉnh thoảng, người đọc cảm thấy an tâm trong đôi lời thơ mạch lạc :
Cửa kín chòm mây cuốn nẻo xa
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Tr. 26
Người Thơ hé mở một thoáng tâm linh, nhưng hình ảnh vẫn mang tính cách tượng trưng, xa cách, xóa nhòa tâm sự cá nhân, pha loãng tình riêng vào làn mưa trên mái ngói.
Đôi khi người đọc gặp vài từ ngữ, ẩn dụ trở đi trở lại như những ám ảnh, tạo nên dăm viên đá cuội trên lộ trình cậu bé tí hon, nhưng dễ gì tìm được heo hút đường về.
Ngoại giới biết đâu là ảo giác :
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Tr. 10
Và thơ, tập thơ mình cầm trong tay, những nốt nhạc, những hàng chữ  « đen trắng đuổi nhau thảnh ảo tượng ». Thơ, tất cả thi ca trên cõi trần này biết đâu chẳng là ảo giác của ảo giác ?
Cần gì để nói thêm về Những điệp khúc cho Dương cầm của Tuệ Sĩ ?.
Phải chăng là tiếng ve sầu chung thủy, ưu hoài những mùa hạ đã ra đi ?.
Tiếng ve trở về,
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương

Đặng Tiến,

Orleans 17/8/2009.
Cập nhật 02-10-2009