Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Hoàng Xuân Phú : Chẳng nhẽ độc quyền cả nói dối hay sao?

Nguồn hoangxuanphu

 

Chúng ta đang chứng kiến các cuộc tấn công vào "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992" và những người ghi tên ủng hộ. Chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV là một ví dụ điển hình. Nó công bố kết quả "điều tra sự thật" ở Thái Bình và Hà Tĩnh. Ngay trong câu mở đầu, người xem đã có thể nhận ra thái độ của VTV đối với bản kiến nghị đó:

"Thưa quý vị và các bạn, thời gian gần đây, trên một số trang mạng đã xuất hiện cái gọi là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 do một nhóm người soạn thảo và sau đó bản kiến nghị này được cho là đã có nhiều người ký tên ủng hộ, trong đó đông nhất là ở Hà Tĩnh và Thái Bình."

Nếu phỏng theo phong thái của VTV thì có thể mở đầu bài đáp lễ như sau:

 

Thưa "cái gọi là" VTV, "cái gọi là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992" không chỉ "xuất hiện" "trên một số trang mạng", mà đã được một đoàn đại diện gồm 15 người (không đến nỗi vô danh) chính thức trao cho ông Lê Minh Thông, là Phó Chủ tịch Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Phó Trưởng Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, vào sáng ngày 4/2/2013 tại Văn phòng Quốc hội, 37 Hùng Vương, quận Ba Đình, Hà Nội. Đó là một hoạt động công khai, với tinh thần xây dựng và trách nhiệm cao, hưởng ứng đợt lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đang được tổ chức trên toàn quốc. Sự kiện trao kiến nghị ấy đã được dư luận rất quan tâm và được báo chí "chính thống" đưa tin, ví dụ như báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh và báo Dân trí. Đặc biệt, báo Người lao động đã tường thuật với tiêu đề trang trọng: "Cơ hội tạo sức mạnh dân tộc". VTV không thể không biết sự kiện ấy, và lẽ ra phải đưa tin để "phản ảnh kịp thời ý kiến đóng góp của nhân dân", như đã viết trong Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thế nhưng, cái "được cho là" "đài truyền hình quốc gia" và mang tên là "Đài Truyền hình Việt Nam" lại tỏ ra không hay biết, khi đó thì không hề đưa tin, và nay lại nhắc đến một cách miệt thị.

 

Vâng, ta có thể tiếp tục phong thái mỉa mai của VTV cho đến cuối bài. Nhưng thôi, xin chuyển sang lối viết thuần túy xây dựng, với hy vọng giúp họ nhận ra hạn chế của mình mà rút kinh nghiệm, rồi cố gắng học thêm để trưởng thành, xứng đáng với những đồng tiền thuế thấm đẫm mồ hôi và nước mắt của nhân dân, phải bỏ ra nuôi họ và chi phí cho họ hành nghề. Tất nhiên, phải giả thiết rằng họ thực sự cầu thị và thành tâm muốn học hỏi. Còn nếu ai đó đinh ninh rằng mình đã giỏi và hiểu biết hơn người, thì sự tệ hại của tác phẩm chắc hẳn bám rễ sâu trong tâm hồn tác giả, khi đó khó lòng mà lay chuyển nổi.

 

Sau đây tôi sẽ dùng đại từ "chư vị" để trao đổi với những ai tham gia tấn công "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992"và những người ghi tên ủng hộ, hay tham gia những chiến dịch tương tự để cản trở tiến trình dân chủ hóa xã hội tại Việt Nam. Tức là không chỉ trao đổi riêng với các vị đã làm chương trình thời sự 20/3/2013 của VTV, cũng không chỉ trao đối với các vị ở tầm biên tập viên hay phóng viên, mà với cả các cấp lãnh đạo của họ.

 

 

1.  Trước hết, đề nghị chư vị hãy bỏ chút thời gian xem lại nhiều lần đoạn video lưu trữ chương trình thời sự 20/3/2013 của VTV. Hãy nghe thật kỹ ý kiến của cả 5 vị, được VTV lựa chọn để đại diện cho nhân dân Thái Bình. Đó là các ông Nguyễn Văn Luân (Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thái Bình), Vũ Ngọc Ngoạn (phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình), Quách Thước (phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình), Vũ Đình Trích (giáo dân xã Đông Minh, huyện Tiền Hải) và Nguyễn Văn Chính (Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện Tiền Hải). Chư vị có thấy một bằng chứng bất kỳ nào được họ chưng ra hay không? Hoàn toàn không! Hết thảy 5 ông, cả quan lẫn dân, đều chỉ phát biểu cảm tưởng về một vụ việc mà họ không hề tham dự và không hề trực tiếp chứng kiến. Ví dụ như ông Vũ Đình Trích thì hùng biện thế này:

"Có bao nhiêu những người ở Nghệ An, khi hỏi đến họ thì họ không biết gì cả, thế mà họ lại có tên trong cái bản là là là xin là đa nguyên đa đảng. Như vậy đến khi hỏi đến họ thì họ không có biết gì cả, vì đấy là một số người bịa ra chứ không phải là là nhân dân Thái Bình, gần 2 triệu nhân dân Thái Bình không bao giờ như vậy.Đấy chỉ là một nhóm người bịa ra thôi."

Hẳn cộng tác viên của VTV phải có tài đi mây về gió như Tôn Hành Giả. Vừa say sưa vãn cảnh ở Nghệ An, vèo một cái đã lượn trên bầu trời Thái Bình để bao quát tình hình toàn tỉnh. Ông Trích túm lấy cái thông tin đã nghe được (có lẽ từ thời sự VTV) về xứ Nghệ An xa xôi làm bằng chứng, để suy diễn ra tình hình ở tỉnh Thái Bình, nơi mà chính ông đang sinh sống. Và thế là đã đủ cơ sở thực tiễn để vị giáo dân xã Đông Minh hùng hồn kết luận về toàn bộ nhân dân tỉnh Thái Bình"… đấy là một số người bịa ra chứ không phải là là nhân dân Thái Bình, gần 2 triệu nhân dân Thái Bình không bao giờ như vậy. Đấy chỉ là một nhóm người bịa ra thôi."

 

Vâng, cả biên tập viên Quang Minh lẫn 5 "nhân chứng" đều không hề đưa ra được một bằng chứng nào cả!!! Bằng chứng thuyết phục không có đã đành, bằng chứng ngụy tạo ngờ nghệch cũng không có nốt! Vậy mà VTV lại dõng dạc tuyên bố như sau:

"Cách đây nửa tháng theo điều tra độc lập của báo Đại đoàn kết và tiếp đó là Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tĩnh thì hầu hết là người nông dân và hơn 100 sinh viên Đại học Hà Tĩnh ký vào cái gọi là Bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đều là tên giả và không có địa chỉ. Cách đây 2 ngày phóng viên của Đài truyền hình Việt Nam đã về Thái Bình để tìm hiểu về sự việc này và đã phát hiện ra những bằng chứng về sự ngụy tạo này."

Trích đoạn trên không chỉ thể hiện cách hiểu kỳ quặc của VTV về cái gọi là "bằng chứng", mà còn phản ánh cả phương pháp tác nghiệp của VTV khi tìm kiếm "bằng chứng": Để chứng minh rằng hầu hết những người nông dân và sinh viên ở Hà Tĩnh ký vào bản kiến nghị "đều là tên giả và không có địa chỉ", VTV không cử phóng viên về Hà Tĩnh, mà lại "về Thái Bình để tìm hiểu về sự việc này". Qua đó ta thấy, không chỉ biên tập viên Quang Minh, mà cả những người lãnh đạo ông ta cũng chia sẻ tư duy ở tầm ông nông dân Vũ Đình Trích. Chỉ sáng tạo ngược chiều thôi: Ông Trích thì dùng thông tin nghe được từ phía nam (Nghệ An) để kết luận về tình hình phía bắc (Thái Bình), còn chư vị thì ngược lại, đến phía bắc (Thái Bình) để "tìm hiểu" tình hình phía nam (Hà Tĩnh).

 

Để bổ sung "bằng chứng", VTV phỏng vấn thêm ông Từ Văn Thiện, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, và ông này cũng lập luận tương tự:

"Tìm hiểu 12 người mà các trang mạng cho là công chức của ngành y tế Hà Tĩnh thì trong đó chỉ có 2 trong 12 người là thuộc công chức của ngành y tế Hà Tĩnh, còn 10 người là không có địa chỉ cụ thể và cũng không phải là công chức của ngành y tế Hà Tĩnh… Tìm hiểu 13 người trong số ngành công chức giáo dục mà các trang mạng cho là công chức giáo dục Hà Tĩnh thì hầu hết là trùng tên và một tên như vậy có thể trùng với hàng trăm, hàng nghìn người trong ngành, không có địa chỉ cụ thểQua những vấn đề đó thì chúng tôi kết luận việc các trang mạng đưa danh sách những người dân Hà Tĩnh ký vào cái kiến nghị tập thể thì đều là giả mạo và ngụy tạo…"

Nghĩa là: Chỉ mới điều tra 12 cái tên thuộc ngành y tế và 13 cái tên thuộc ngành giáo dục, trong hoàn cảnh "hầu hết là trùng tên và một tên như vậy có thể trùng với hàng trăm, hàng nghìn người" và "không có địa chỉ cụ thể", thế mà họ đã thấy có đủ cơ sở vững chắc để "kết luận" là "trên dưới 1300 người gồm đầy đủ các thành phần, trong đó những người làm ruộng và nông dân chiếm số đông trên 70%", có tên trong "danh sách những người dân Hà Tĩnh ký vào cái kiến nghị tập thể thì đều là giả mạo và ngụy tạo".

 

Những cái tên thông thường, thậm chí là "tên giả", và "không có địa chỉ", chỉ biết là ở tỉnh Thái Bình (có khoảng 1,8 triệu người) và tỉnh Hà Tĩnh (có khoảng 1,2 triệu người). Vậy mà sau một thời gian cực ngắn chư vị đã tìm ra được đương sự, hoặc ít nhất cũng tìm ra địa chỉ, bởi lẽ nếu không tìm được thì không thể biết đó là "tên giả". Vở hài kịch này được thiết kế bởi tầm tư duy nào và cho tầm tư duy nào vậy?

 

Quả thật, không biết chọn từ gì lịch sự hơn là "thảm hại" để chỉ lối tư duy và tác nghiệp đã được chư vị phô diễn. Điều còn phân vân là nguyên nhân: Không hiểu do trình độ quá thấp, nên chư vị không thể tự nhận ra sự ngờ nghệch của bản thân và đồng nghiệp, hay vì chư vị quá coi thường nhân dân, cho rằng chúng tôi ngu ngốc đến mức không thể phân biệt đúng – sai, nên chư vị nói gì cũng tin nấy?

 

Cứ coi như vì quá căm thù những người ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992", nên chư vị mới dựng chuyện để bôi nhọ họ. Nhưng những khán giả truyền hình và bạn đọc chất phác thì tội tình gì, có hiềm khích gì với chư vị, mà lại nỡ lừa họ một cách sống sượng như vậy?

 

 

2.  Chư vị khó chịu về việc nhiều tên xuất hiện trong danh sách "không có địa chỉ" cụ thể và coi đó là "bằng chứng về sự ngụy tạo". Điều gì sẽ xảy ra với những người dân đen "thấp cổ bé họng", nếu họ khai rõ ràng địa chỉ của mình khi bày tỏ sự ủng hộ đối với một kiến nghị mà nhà cầm quyền rất ghét? Liệu sau đó họ có thể sống yên ổn hay không? Câu trả lời thì ai ai cũng rõ, và chư vị còn biết rõ hơn. Vậy thì tại sao lại đòi hỏi người dân, khi thể hiện chính kiến bất đồng, phải khai đầy đủ địa chỉ của mình? Phải chăng cái lô-gíc của chư vị là thế này: Nếu ngươi không dám công khai địa chỉ ra để cho ta… hành hạ, thì ngươi là đồ hèn.

 

Đòi hỏi người dân như vậy, nhưng chính các tác giả của trước tác mang tên "Sự thật đằng sau bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp trên một số trang mạng: Sự ngụy tạo có chủ đích", đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 9/3/2013, lại không dám khai ra tên thật hay bút danh quen thuộc của mình, mà dấu mặt sau cái tít "Nhóm phóng viên Thời sự - Chính trị". Các nhà báo ấy phụng sự chính quyền và được chính quyền bảo vệ, mà còn phải nặc danh. Vậy thì, so với những người dân trần trụi trong chế độ chuyên chính, luôn đứng trước nguy cơ bị trả thù, ai hèn hơn ai?

 

Đừng vội khẳng định rằng nếu người ghi tên ủng hộ kiến nghị không ghi rõ địa chỉ thì không thể chấp nhận được, vì như vậy cũng giống như phủ định giá trị của tác phẩm khi tác giả không công khai địa chỉ. Cuốn tiểu sử nổi tiếng "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" là một ví dụ điển hình. Cuốn sách ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh này là tác phẩm duy nhất mang tên tác giả Trần Dân Tiên, và ông ấy không hề để lại tung tích. Có ý kiến cho rằng Trần Dân Tiên là một bút danh của Hồ Chí Minh, nhưng yếu tố phủ định có thể tìm thấy trong câu sau đây của cuốn tiểu sử:

"Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?"

Khi dựa trên tiên đề về tính khiêm tốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta thấy ông không thể tự ca ngợi mình là "khiêm tốn nhường ấy". Từ đó suy ra: Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh. Sự vô danh tính của tác giả Trần Dân Tiên không hề cản trở lòng ngưỡng mộ của hàng triệu người đối với tác phẩm, và nó đã được chế độ này trân trọng tái bản rất nhiều lần trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

 

Là những người làm việc trong guồng máy tuyên giáo của ĐCSVN, chắc hẳn chư vị không thể phủ định giá trị của tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", chỉ vì tác giả của nó không để lại địa chỉ. Vậy thì tại sao chư vị lại nỡ phủ định giá trị của các ý kiến ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992"chỉ vì đương sự không công khai địa chỉ, giống như Trần Dân Tiên?

 

 

3.  Chư vị rất khó chịu về việc xuất hiện "tên giả", và sử dụng điều đó để phủ định giá trị, không chỉ của mấy biểu quyết kèm theo "tên giả", mà của toàn bộ danh sách ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992".

 

Từ từ đã! Hãy nghĩ xem, ai là những bậc thầy trong việc sử dụng "tên giả"? Đó chính là các bậc tiền bối của ĐCSVN! Trong thời gian hoạt động bí mật, họ luôn luôn sử dụng bí danh và liên tục thay đổi bí danh. Và "bí danh" chẳng qua là cách gọi lịch sự của "tên giả" mà thôi!

 

Ai là người có nhiều bí danh nhất? Vâng, chính là nhà cách mạng nổi tiếng có tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Tất Thành. Ông đã sử dụng rất nhiều bí danh: Văn Ba (1911), Nguyễn Ái Quốc (1919), Lý Thụy (1924), Lin (1924), Thầu Chín (1928), Tống Văn Sơ (1931), Hồ Quang (1938), Già Thu (1941), Hồ Chí Minh (1942)… Không chỉ trong thời kỳ hoạt động bí mật, mà ngay cả khi đã làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nghĩa là khi không còn lo bị địch bắt), ông vẫn tiếp tục sử dụng thêm nhiều bí danh, bút danh mới. Bao năm nay kêu gọi nhân dân "học tập và làm theo", thì bây giờ có người "học tập và làm theo" việc sử dụng bí danh, sao chư vị lại bôi nhọ người ta?

 

Hãy hình dung ra hoàn cảnh chư vị đang diễn thuyết tại một diễn đàn lớn, với sự tham gia của hàng trăm, hay cả nghìn người xa lạ. Để biết có khoảng bao nhiêu phần trăm cử tọa chia sẻ quan điểm với mình, chư vị đề nghị ai tán thành thì giơ tay lên. Hiển nhiên là không thể yêu cầu hàng trăm người giơ tay phải xưng tên và địa chỉ, một mặt vì không có đủ thời gian, mặt khác thì thông tin đó không hề quan trọng. Nếu chư vị tò mò về một gương mặt siêu xinh và hỏi tên cô gái đó, nhưng cô ta ngượng nghịu trước đám đông, không dám khai tên thật là Nguyễn Thị Nở, mà bịa ra cái tên giả là Nguyễn Hồng Sen, thì chư vị có tìm cách điều tra để xác định đúng hay sai, rồi kiên quyết loại bỏ giá trị biểu quyết của cô Nở, chỉ vì khai tên giả, hay không?

 

Giả sử có người khai tên giả để lĩnh thêm vài suất tài trợ thì đi một nhẽ. Đằng này, trong hoàn cảnh nguy hiểm không kém thời các bậc cách mạng tiền bối hoạt động bí mật, nếu ai đó sử dụng bí danh, không vì vụ lợi, mà chỉ nhằm nói lên một sự thật giản đơn, là có thêm một người ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992", thì có gì là xấu xa?

 

Những ý kiến ở trên chắc cũng đủ gợi ý chư vị suy nghĩ lại, để nhận ra những sơ hở trong mạch tư duy và lý luận của mình. Song điều đáng băn khoăn hơn cả không phải là sự thiếu hiểu biết, mà là tâm lý và động cơ sâu xa ẩn khuất sau hành động của chư vị, mà tôi sẽ trình bày trong hai phần còn lại.

 

 

4.  Khi chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV phát sóng thì Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 có chưa đến 10.400 người, nghĩa là chỉ chiếm khoảng 0,01% (một phần vạn) dân số Việt Nam. 0,01% là một tỷ lệ rất rất nhỏ. Dù có nhân lên 100 lần thì cũng mới chỉ là 1%, vẫn còn rất nhỏ. Trong một đất nước văn minh, nếu bỏ phiếu về một vấn đề gì đó mà chỉ có 10% phản đối thì đã được coi là thành công rực rỡ. Còn nếu chỉ có 1% phản đối thì đã là chuyện… "không tưởng". Ở chế độ này, khi mới chỉ có 0,01% dân số thể hiện chính kiến khác, thì chư vị đã cuống lên, phản ứng quá hoảng loạn, mất cả khôn. Điều đó nói lên cái gì?

 

Phải chăng chư vị không thể chấp nhận được việc có 0,01% dân số nghĩ khác mình?

Phải chăng đó chính là biểu hiện của sự độc quyền tuyệt đối về tư tưởng?

 

 

5.  Chương trình thời sự ngày 20/3/2013 của VTV đã gán cho việc ghi tên ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992" một loạt động từ xấu xa: "ngụy tạo", "mạo danh", "bịa ra", "giả mạo". Để cho gọn, xin gói chung chúng trong một động từ đơn giản là "nói dối".

 

Thật ra, nếu có điều gì không chính xác trong danh sách những người ủng hộ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992"thì cũng là lẽ thường tình. Không thể loại trừ những trường hợp cố tình khai báo sai, do kẻ xấu chủ động tạo ra để lấy cớ bôi nhọ, hay những kẻ nghịch ngợm bày trò để tiêu khiển. Những người đứng ra giúp tổng hợp chữ ký không thể điều tra,không thể xác minh, để đảm bảo tính chính xác của tên người và địa chỉ. Một mặt, họ không có đủ nhân lực, thời gian và tiền bạc. Mặt khác, nếu họ về các địa phương để xác minh thì sẽ bị chính quyền quy cho tội đi kích động nhân dân chống phá chế độ… Có người đề xuất là chỉ chấp nhận đăng ký của những người ghi đầy đủ địa chỉ. Điều đó không giúp ích được gì, vì cũng không thể đi xác minh xem tên và địa chỉ là đúng hay sai. Ngược lại sẽ có hại, vì những người sợ bị trả thù sẽ không giám ghi tên nữa, và những kẻ cố tình phá hoại có thể chủ động sinh ra tên sai tại địa chỉ có thật, để dễ bề "xác minh" và tố cáo.

 

Cho nên, nếu VTV, hay báo Đại đoàn kết, hay bất cứ cơ quan nào trong guồng máy tuyên truyền khổng lồ, phát hiện ra thông tin không chính xác trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Buồn một nỗi, chưa tìm ra bằng chứng cụ thể nào, mà vẫn dõng dạc tuyên bố là "đã phát hiện ra những bằng chứng về sự ngụy tạo".

 

Lẽ ra, đã tiêu tốn tiền thuế của nhân dân cho chuyến công vụ điều tra, thì cũng phải chịu khó làm được chút gì đó. Đằng này lại lười, muốn thanh toán công tác phí nhưng lại ngại đổ mồ hôi, đến ngụy tạo ra "bằng chứng về sự ngụy tạo" cũng không làm nổi. Trong dân gian thường có câu "ăn gian – nói dối", còn làm ăn như chư vị thì là "đến nói dối cũng còn ăn gian".

 

Cứ tạm coi nghi ngờ của chư vị về hiện tượng "nói dối" trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 là có cơ sở đi. Nhưng điều đó có đáng để chư vị phải tức tốc đi điều tra hay không? "Nói dối" có phải là chuyện xa lạ và tệ hại đến mức chư vị phải tổ chức chiến dịch lên án hay không?

 

Có thể dễ dàng trả lời câu hỏi vừa rồi, nếu chư vị chịu khó ôn lại một số sự kiện lịch sử. Ví dụ: Việc Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" ngày 11-11-1945, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật và vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo chính quyềnviệc tuyên bố ngừng bắn để nhân dân yên ổn ăn tết Mậu Thân 1968, nhưng đồng thời lại tổ chức tấn công đồng loạt trên toàn miền Nam; việc công bố ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là 3/9/1969 (muộn đi môt ngày so với thực tế)… Có rất nhiều dẫn chứng lịch sử như thế. Nhưng thôi, ta hãy tập trung vào một số ví dụ mang tính thời sự.

 

Ghi vào Hiến pháp 1992 đủ thứ mĩ miều, nhưng trên thực tế thì hành động hoàn toàn ngược lại.

"Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…" (Điều 2, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng ĐCSVN lại chiếm hết tất cả quyền lực, còn nhân dân thì buộc phải chấp nhận mọi sự lựa chọn và quyết định của đảng.

"Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, … đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật." (Điều 54, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng hầu hết những người tự ra ứng cử đều bị cản trở thô bạo, đến mức buộc phải rút lui.

"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật." (Điều 69, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng tất cả các quyền kể trên đều không được nhà cầm quyền chấp nhận trên thực tế. Thậm chí, nhiều người cố gắng thực thi các quyền hiến định đó đã bị trấn áp, bị giam vào tù.

"Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ." (Điều 70, Hiến pháp 1992)

Thế nhưng đất của nhà thờ vẫn bị chiếm giữ…

 

Kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, thậm chí tuyên bố rằng:

"Nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả".

Nhưng khi có ý kiến góp ý "trái chiều" thì lại quy chụp là "suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống", là chống đảng, chống chế độ…

 

Gọi là lấy ý kiến dân chủ rộng khắp trong nhân dân, nhưng lại áp dụng những thủ đoạn sở trường để ép người dân phải ghi rõ là "đồng ý", khi chưa kịp đọc Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

 

Mấy chục năm nay, luôn khẳng định rằng tiến lên chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng của nhân dân, và việc duy trì Điều 4 trong Hiến pháp cũng là sự lựa chọn của nhân dân. Nhưng căn cứ vào đâu mà nói liều như vậy? Đã bao giờ tổ chức trưng cầu dân ý để toàn thể nhân dân bày tỏ nguyện vọng và nêu ra lựa chọn của mình đâu? Không phải nhà cầm quyền ngộ nhận ý dân, mà có lẽ họ còn cho rằng đa số nhân dân nghĩ ngược lại. Vì sao ư? Giả sử đa số cử tri (chỉ cần 51% thôi) ủng hộ duy trì Điều 4, tức là duy trì quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN, thì kể cả trong hoàn cảnh tổng tuyển cử tuyệt đối tự do và ĐCSVN chưa cần phải áp dụng các mẹo sở trường, chắc chắn ĐCSVN vẫn thắng cử, và do đó được đóng vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội một cách chính đáng. Chính vì vậy, khi lãnh đạo ĐCSVN khẳng định rằng"bỏ Điều 4 là tự sát", thì có nghĩa họ cho rằng ít nhất là 50% cử tri không ủng hộ việc ĐCSVN duy trì quyền lãnh đạo. Đơn giản là vậy!

 

Những sự việc kể trên không phải là nói dối hay sao? Chư vị có định lên án hay không?

 

Phải chăng chư vị sẽ lỉnh, với lý do là những việc đó thuộc kênh khác, không phải là "kênh tuyên giáo" của chư vị? Cũng chẳng cần chư vị phải gánh trách nhiệm thay cho người khác đâu, bởi vì "kênh tuyên giáo" chính là nơi nói dối nhiều nhất. Đến nỗi nhiều người cứ đến buổi thời sự thì lại tắt TV, hoặc chuyển sang kênh khác, để khỏi phải đau đầu với những điều giả dối. Hiện nay, hàng ngày chư vị tuyên truyền trên TV và đài báo về sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân đối với những điều được coi là "nhạy cảm" trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992ví dụ như duy trì việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN, không chấp nhận sở hữu tư nhân về đất đai, lực lượng vũ trang trước hết phải trung thành với ĐCSVN, rồi sau đó mới đến Tổ quốc và Nhân dân…  Hẳn chư vị cũng tự biết là mình đang nói dối. Chư vị tung ra "bằng chứng điều tra" để bôi nhọ "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp năm 1992", nhưng như đã chỉ ra trong phần 1: Chư vị đã nói dối!

 

Người dân không hề ngạc nhiên, bởi đã quen dần với điều đó, và đã mặc nhiên thừa nhận rằng: Nói dối là bản năng và biện pháp nghiệp vụ của guồng máy tuyên truyền.

 

Điều khiến dân tình khó hiểu là: Tại sao những người thường xuyên nói dối lại lao vào điều tra, rồi phản ứng rất cực đoan, khi cho rằng có hiện tượng nói dối trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992?

 

So với việc không hề điều tra ý dân trên toàn quốc, mà vẫn khẳng định rằng sự độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, chế độ độc đảng và chủ nghĩa xã hội đều là ý nguyện của nhân dân Việt Nam, từ đó bắt buộc cả Dân tộc phải chấp nhận trạng thái ấy, thì sự ngụy tạo – nếu có – trong Danh sách người kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 có thấm tháp gì đâu?

 

Bản thân thì nói dối tràn lan, vậy tại sao lại ấm ức khi cho rằng có người dân nào đó cũng nói dối?

Chẳng nhẽ chư vị muốn độc quyền cả nói dối hay sao?

 

 

Hà Nội, 27/03/2013

 

 

Cùng tác giả:

-       Một ngày để nhớ

-       Là thực thi quyền hiến định ông Trọng ạ!

-       Chỗ đứng của Nhân dân trong Hiến pháp

-       Teo dần quyền con người trong Hiến pháp

-       Hai tử huyệt của chế độ

-       Viễn tưởng từ chức

-       Bài học tồn vong từ thảm họa

-       Nhận thức mới: Lấy là bỏ, bỏ là lấy

-       Lực cản Nhà nước pháp quyền

-       Trải bốn nghìn năm còn chậm lớn

-       Chiến binh cầm bút

-       Hãy để lương tâm lên tiếng một lần!

-       Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng – Hải Phòng

-       Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ

-       Quyền biểu tình của công dân

-       Phiêu lưu điện hạt nhân

-       Về huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ

-       Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân

-       Nỗi buồn Quốc hoa

-       Một nhà khoa học đích thực

-       Bàn về qui mô đào tạo đại học từ góc độ chất lượng giảng viên

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Tony Judt : Xa cộng sản, gần con người: bể dâu ở Tây Âu

Nguồn procontra

Tháng 3 28, 2013

Phan Trinh dịch

Giới thiệu của người dịch:

1. Có một thời, không ít trí thức Tây Âu say mê cộng sản như nghiệnthuốc phiện, nói theo cách của Raymond Aron (Marx: Tôn giáo là thuốc phiện mê dân. Aron: Chủ nghĩa Marx là thuốc phiện mê hoặc trí thức.) Nghiện  đến mụ mị, họ còn cho rằng ai theo cộng sản như họ mới tiến bộ, còn ai chống cộng là đi ngược dòng lịch sử.

Nhưng đến thập niên 1970, 1980, thì "ngược" lại hóa xuôi trong một cuộc bể dâu làm suy tàn danh tiếng của cả những trí thức hàng đầu.

2. Bàn về trí thức theo cộng sản, có ý kiến cho rằng "Đã thông thái và cộng sản thì không lương thiện"*. Đây là một cách nhìn, có lẽ đúc kết từ những kinh nghiệm đau đớn và phản ảnh một thực tế dữ tợn khó phủ nhận, vẫn diễn ra hàng ngày. Nhưng cũng có cách nhìn khác. Mượn lời Karl Popper, bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ đối lập Miến Điện, cho rằng "Không có cái ác… chỉ có sự ngu dốt mà thôi."** Nói cách khác, ngu dốt đã sinh ra cái ác và sự bất lương.

Có lẽ, đó là một kết luận bao dung, không phán xét đạo đức, tin vàotính bản thiện của con người, tin vào khả năng thắp sáng của sự thật, có thể dùng làm nền tảng của đối thoại thay vì loại trừ. Và Aung San Suu Kyi đã làm điều bà tin trong cuộc đấu tranh cho dân chủ đang diễn ra.

Nhưng cũng có thể cắc cớ hỏi lại rằng: Hay vì không sống ở Việt Nam thời cộng sản nên Aung San Suu Kyi tin rằng "không có cái ác" chăng?

Dù sao, thiện ác là đề tài dễ gây tranh cãi. Ai cũng có thể chọn cách nhìn này hay cách nhìn kia, đứng giữa cả hai, phủ nhận cả hai, hoặc đứng ngoài, miễn bàn… Nhưng có lẽ, điều đáng nói hơn là sau khi tỉnh ngộ, người hiểu biết và có lương tri sẽ đứng đâu, làm gì.

Như được mô tả trong bài này, sự thật đã đẩy lùi dối trá và một thế hệ trí thức mới ở Tây Âu đã đứng về phía quyền con người. 40 năm sau, điều này dường như cũng đang diễn ra tại Việt Nam.

3. Cuộc biến cải lớn lao, ván đặt cược trắng tay của trí thức, và quyền con người như một ngọn cờ mới là nội dung đoạn văn dưới đây của sử gia Tony Judt ***, trích từ cuốn Post War - A History of Europe Since 1945 (Hậu Chiến – Một cách nhìn về Lịch sử Châu Âu từ 1945), do Nhà Xuất bản Penguine Books phát hành năm 2005. Đoạn trích dịch là phần đầu Chương 18, 'Power of the Powerless' (Quyền lực của Không Quyền lực) dựa trên tiểu luận cùng tên của Vaclav Havel. Chương này phần đầu nói về trí thức Tây Âu, và phần sau nói về trí thức Đông Âu trước khi cộng sản sụp đổ năm 1989. Tựa và tiêu đề các đoạn là của người dịch.

* Xem "Góp phần 'giải mã' một thế hệ dấn thân" của Hà Sĩ Phu, đăng trên trang mạng Bauxite Việt Nam, ngày 25/2/2013.

** "There's no evil… but stupidity". Xem Aung San Suu Kyi – The Voice of Hope, của Alan Clements và Aung San Suu Kyi, NXB Penguine Books, 1997, trang 130 và 36.

*** Tony Judt sinh năm 1948 tại Luân Đôn. Ông học tại King's College, Cambridge, Anh Quốc, và École Normale Supérieure tại Paris. Ông dạy học tại Cambridge, Oxford, Berkeley và New York University. Năm 1995, ông sáng lập và điều hành Viện Remarque chuyên nghiên cứu Châu Âu. Ông là tác giả của hàng chục đầu sách, là cộng tác viên thường xuyên của The New York Review of BooksThe New York Times (NYT). Cuốn Post War, dài trên 900 trang, lọt vào chung kết Giải Pulitzer, là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2005 của NYT, đoạt giải Arthur Ross Book Award sách hay nhất về lịch sử quốc tế năm 2006. Tony Judt mất năm 2010 tại New York.

NYT có câu nhận xét về Post War sau đây: "… đồ sộ, đầy học thuật và thật chi tiết, mô tả Châu Âu hồi phục từ đống đổ nát Thế chiến thứ Hai, tác phầm của Judt vừa cho thấy toàn cảnh cả một lục địa, vừa cho bùng nổ những kiến giải bất ngờ gần như trên từng trang giấy."

___________________

Sức nặng của một cuốn sách đúng lúc

Nếu muốn tìm một thời điểm có tính biểu tượng, đánh dấu sự chuyển đổi của cục diện Châu Âu, một bản lề dựa trên đó cái nhìn của Châu Âu hậu chiến về chính mình xoay chiều, thì đó là ngày 28 tháng 12 năm 1973, tại Paris, ngày tác phẩm Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) của Alexandr Solzhenitsyn được xuất bản lần đầu tiên tại Phương Tây. Điểm bản dịch tiếng Anh của cuốn sách, nhà phê bình W. L. Webb viết trên tờ Guardian rằng: "Sống thời nay mà không biết tác phẩm này thì có nguy cơ trở thành một thứ thằng khờ lịch sử, sẽ bỏ sót một phần rất quan trọng của ý thức thời đại." Tuy nhiên, như Solzhenitsyn công nhận, điều nghịch lý nằm ở chỗ thông điệp của cuốn sách – rằng "Chủ nghĩa xã hội như đang tồn tại trên thực tế" chỉ là một trò dối trá man rợ, một chế độ độc tài toàn trị được xây dựng trên nền tảng lao động khổ sai và thủ tiêu hàng loạt – lại không có gì mới.

Solzhenitsyn đã viết về đề tài này trước đó. Vô số nạn nhân, người sống sót, nhà quan sát, các học giả cũng đã viết về đề tài này trước đó. Quần đảo ngục tù tuy có bổ sung thêm cả trăm trang chi tiết và dữ liệu cho các tác phẩm trước, nhưng về khả năng đánh động lương tâm và cảm xúc người đọc thì phải nói tác phẩm này không hơn được cuốn tự thuật Đường vào tâm bão (Journey into the Whirlwind) của Evgenia Ginzburg, xuất bản năm 1967; hoặc cuốn hồi ký của Margarete Buber Neumann về kinh nghiệm bản thân trong cả hai ngục tù Xô-viết lẫn Đức Quốc xã, xuất bản lần đầu năm 1957; hoặc cuốn sách của Wolfgang Leonhard giải mã về niềm tin đặt sai chỗ của mình, ra mắt năm 1955; hoặc cả những cuốn góp phần đánh đổ huyền thoại Xô-viết sớm hơn nữa của Victor Serge và Boris Souvarine.[1]

Nhưng điều quan trọng hơn cả là Quần đảo ngục tù đã ra đời đúng lúc. Những trí thức phê phán chủ nghĩa cộng sản chẳng bao giờ thiếu; tuy nhiên, ảnh hưởng của họ trong nhiều thập niên lại bị lu mờ đi vì niềm hy vọng hão huyền, nhưng tràn lan ở Tây Âu (và cả Đông Âu thập niên 1960), của những kẻ cố tìm cho ra vài tia hy vọng trong đám mây đen có tên chủ nghĩa xã hội nhà nước đang bao phủ phần lớn lục địa Châu Âu, sau khi ra đời tại Nga năm 1917. "Chống cộng sản", bất kể vì động cơ thật hay được gán ghép, dễ dàng bị xem là hành vi thách thức cả lịch sử lẫn tiến bộ, là bỏ qua "bức tranh tổng thể", là cố tình chối bỏ sự gần gũi thiết yếu gắn kết nhà nước phúc lợi dân chủ (dù thiếu sót đến mấy) với chế độ tập thể của chủ nghĩa cộng sản (dù vấy bẩn đến đâu).

Đó là lý do khiến những trí thức chống lại hiện trạng hậu chiến bị đẩy ra ngoài lề. Những chủ trương như của Hayek và một số trí thức tương tự – rằng các kế hoạch nhằm kìm hãm kinh tế thị trường, nhân danh phúc lợi cho mọi người, dù có mục tiêu tốt vẫn không thể mang lại  hiệu quả kinh tế, và tệ hơn nữa, nó còn là bước đầu trên conđường dẫn tới nô lệ – bị xem là chủ trương sai lầm, là xé nát tấm bản đồ đưa đến tiến bộ của thế kỷ 20. Ngay những người chống độc tài cộng sản như Arthur Koestler, Raymond Aron, Albert Camus hoặc Isaiah Berlin cũng bị xem thường. Họ cho thấy cải cách dân chủ xã hội vì phúc lợi của mọi người không đồng nghĩa với độc tài đảng trị nhân danh tập thể, nhưng chủ trương của họ lại bị nhiều nhà phê bình, được gọi là "tiến bộ" lúc bấy giờ, xem như một thứ tiếng vọng nối dài phục vụ quyền lợi của phe chống cộng trong Chiến tranh Lạnh.

Hậu quả là họ đụng phải sự miễn cưỡng tràn lan, đặc biệt là của thế hệ 1960, thế hệ những kẻ không muốn từ bỏ thứ giáo lý cấp tiến đã theo đuổi bấy lâu nay. Quả thực, thấy được đại họa do Stalin gây ra và nhạo cười ông là một chuyện – dù sao thì Stalin cũng đã chết từ lâu và còn bị các thuộc hạ kế vị mình lên án – nhưng nhận ra rằng sai lầm không nằm ở cá nhân con người mà là lỗi hệ thống là một việc hoàn toàn khác. Xa hơn nữa, nếu ai nói rằng tội ác và các lầm lạc do đường lối Lenin gây ra xuất phát  từ một thứ chủ nghĩa không tưởng chứ không gì khác, thì họ sẽ bị xem như kẻ dám đặt mìn phá hoại rường cột chống đỡ nền chính trị hiện đại. Nhà sử học người Anh, E.O. Thompson, người được xem như thần tượng của thế hệ trẻ theo "chủ nghĩa Marx hậu cộng sản", đã lên giọng phê phán Leszek Kolakowski (sau khi Kolakowsi phát hành một tác phẩm lên án chủ nghĩa cộng sản Xô-viết nhân những biến cố năm 1968) như sau: "Sự bất mãn của anh là mối đe dọa cho chính nghĩa xã hội chủ nghĩa của chúng tôi!".

Tuy nhiên, vào năm 1973, niềm tin ấy đã bị lung lay nghiêm trọng, không chỉ vì các trí thức lên tiếng phê phán nó, mà còn vì các sự kiện thực tế nữa. Khi Quần đảo ngục tù được phát hành bằng tiếng Pháp, nhật báo cộng sản L'Humanité đã bài bác nó, họ nhắc nhở độc giả rằng "mọi người" đều đã biết mọi sự về Stalin rồi, vì vậy bất cứ ai muốn moi móc xào nấu lại những chuyện như thế thì chỉ có thể là những kẻ bị kích động theo "chủ nghĩa chống Xô-viết" mà thôi. Nhưng, lời tố cáo "chủ nghĩa chống Xô-viết" vào lúc đó cũng không còn nặng ký nữa. Sau vụ Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc chiếm đóng Praha [1968] và đàn áp kéo dài, sau khi thông tin lọt ra từ Trung Quốc vén màn sự thật về Đại Cách mạng Văn hóa, thì lời tố cáo cộng sản từ gốc lên ngọn của Solzhenitsyn bỗng nghe rất thật – ngay cả, và nhất là, cho những người vốn có cảm tình với cộng sản.

Di sản đổ vỡ

Càng ngày người ta càng thấy rõ chủ nghĩa cộng sản đã làm hư hoại và đánh mất di sản cấp tiến của mình. Và nó tiếp tục đánh mất mình khi nạn diệt chủng tại Kampuchea và bi kịch của "thuyền nhân" Việt Nam được biết đến rộng rãi.[2] Trí thức Tây Âu, con số này rất nhiều, vốn cho rằng Mỹ phải chịu trách nhiệm phần lớn về những tai họa xảy ra tại Việt Nam và Kampuchea. Tinh thần chống Mỹ của họ còn được tiếp thêm nhiên liệu sau khi xảy ra cái chết của Salvador Allende tại Chile do Mỹ giật dây, chỉ ba tháng trước khi xuất bản cuốnQuần đảo ngục tù. Nhưng ngay cả lớp trí thức đông đảo này cũng ngày càng tỏ ra e ngại khi phải đưa ra kết luận, thay vì ung dung phát biểu như trước đây, rằng phe chủ nghĩa xã hội đạo đức hơn phe kia. Đúng là chủ nghĩa đế quốc của Mỹ rất tệ – nhưng phía bên kia còn tệ hơn, thậm chí tệ hơn rất nhiều.

Vào lúc này, quan điểm "cấp tiến" quen thuộc khẳng định rằng mọi công kích nhắm vào chủ nghĩa cộng sản là đe dọa gián tiếp nhắm vào tất cả mọi nỗ lực cải thiện xã hội – quan điểm này cho rằng chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội, quốc hữu hóa, quy hoạch tập trung, và những cải cách xã hội cấp tiến đều là thành phần của một dự án chính trị chung – bắt đầu trở nên tự mâu thuẫn. Lý luận kiểu trên thì cũng như nói rằng nếu Lenin và đồ đệ của mình đầu độc nguồn nước công bằng xã hội thì tất cả mọi người đều bị ngộ độc. Thực tế lịch sử của thế kỷ 20 cho thấy nhà nước bắt đầu trở thành một vấn đề nhiều hơn là một giải pháp, và không chỉ vì lý do kinh tế. Những gì được khởi đầu bằng quy hoạch tập trung phũ phàng thay lại kết thúc bằng giết người tập trung.

Dĩ nhiên, đó là một kết luận nghe rất "trí thức", nhưng sự thoái trào của nhà nước được giới trí thức cảm nhận gần như lập tức. Cũng hợp lý thôi vì chính giới trí thức chứ không ai khác là giới đã hồ hởi cổ vũ cho nhà nước, cho việc cải tổ xã hội từ trên xuống. Như nhận xét của Jiri Grusa, một nhà văn Tiệp Khắc, viết năm 1984: "Chính chúng tôi [những người cầm bút] đã tôn vinh nhà nước của thời hiện đại." Với bản chất của mình, như nhận xét của Ignazio Silone [một trí thức Ý có ảnh hưởng], các chế độ độc tài hiện đại rất cần giới trí thức hợp tác. Cũng tự nhiên thôi khi sự thất vọng của giới trí thức Châu Âu với đại tự sự về tiến bộ đã châm ngòi cho cuộc sụp đổ lớn lao tiếp theo; và cũng tự nhiên thôi khi sự bất mãn này được thấy rõ nhất tại Paris, nơi mà đại tự sự kia đã hình thành, và mang bộ mặt vừa trí thức vừa chính trị, hai thế kỷ trước đó.

Pháp và thế hệ thoát cộng

Nước Pháp vào thập niên 1970, 1980 đã không còn là "Thấu kính tạo lửa của Văn minh Tây Phương" như Arthur Koestler mô tả nữa, nhưng các nhà tư tưởng Pháp vẫn nồng nhiệt quan tâm tới những vấn đề mang tính toàn cầu. Trong khi đó, giới cầm bút và bình luận tại Tây Ban Nha, Tây Đức và Ý vào những năm này phần lớn chú ý tới những vấn đề nội bộ nước mình, mặc dù những đe dọa có tính khủng bố mà họ quan tâm cũng là dấu hiệu suy tàn của khuynh hướng không tưởng cực đoan. Còn giới trí thức Anh, vốn chưa khi nào có cảm tình sâu với chủ nghĩa cộng sản, phần lớn đều thờ ơ khi nó thoái trào và đều giữ khoảng cách với những gì đang diễn ra tại lục địa Châu Âu. Tại Pháp thì ngược lại, nhiều thành phần trí thức tại đây quan tâm dài lâu tới cộng sản. Trong khi chủ trương chống cộng ngày càng mạnh lên trong các cuộc thảo luận công cộng tại Pháp, Đảng Cộng sản lại ngày càng mất phiếu bầu và ảnh hưởng, điều này cho thấy cuộc suy thoái còn được châm thêm nhiên liệu bằng những ký ức và thực tế ngay trên sân nhà. Một thế hệ trí thức mới tại Pháp đã thoát khỏi chủ nghĩa Marx với sự sốt sắng đáng kinh ngạc, đôi khi họ như bị thúc đẩy từ bỏ những dan díu của chính mình trước đó một cách vội vã đến bất thường.

Nhưng, khi lên án sự biến dạng của chủ nghĩa không tưởng cực đoan, những "triết gia mới" trẻ tuổi tại Paris giữa thập niên 1970, như André Glucksman hoặc Bernard-Henri Lévy, nói chung lại cũng không nói được điều gì mới mẻ. Tác phẩm của Glucksmann Les Maitres Penseurs [Những bậc thày tư tưởng] phát hành vào tháng 3 năm 1977 và được ca tụng khắp thế giới, nhưng thực ra cuốn này chẳng có mấy điều mà Raymond Aron đã không nói hay hơn trong tác phẩmOpium des Intellectuels [Thuốc phiện của giới trí thức] ra đời 22 năm trước đó. Cũng không có gì trong tác phẩm Barbarie à Visage Humain[Man rợ với khuôn mặt người] của Lévy, ra đời hai tháng sau cuốn của Glucksmann, mà độc giả Pháp không tìm thấy trong cuốnL'Homme révolté [Kẻ nổi loạn] của Albert Camus. Trớ trêu thay, nếu tác phẩm của Camus bị Jean-Paul Sartre bác bỏ thẳng tay khi nó ra đời năm 1951 thì Lévy và Glucksmann lại trở thành những tác giả ngôi sao có sách bán chạy nhất. Quả là thời thế đã khác.

Jean-Paul Sartre

Tính chất khốc liệt đến chết người của cuộc bể dâu tri thức này thật rõ ràng. Bề ngoài, những biến động này như nhắm vào chủ nghĩa Marx, một ngã rẽ tai hại trong hành trình tư tưởng Phương Tây, nhưng phần lớn hỏa lực của nó trước hết lại nhắm vào những nhân vật dẫn đầu sinh hoạt trí thức hậu chiến, ở Pháp và các nước khác, những người đã đứng nhìn lịch sử từ trên cao, phấn khích tung hô kẻ thắng trận, trong khi lại ra vẻ lịch sự đảo mắt chỗ khác, không nhìn cho rõ những nạn nhân. Bản thân Jean-Paul Sartre, người trí thức nổi tiếng nhất trong số họ, cũng bị gạt ra khỏi vị trí được ưa chuộng trong những năm này, kể cả trước khi ông chết năm 1980, di sản sáng tạo của ông bị ố bẩn bởi những lời biện hộ cho cộng sản Xô-viết, và sau này là chủ nghĩa Mao.[3]

"Cách mạng Pháp đã chết!"

Cuộc "biến đổi khí hậu" trí thức này tại Paris còn được mở rộng hơn nữa, chứ không dừng lại ở việc tách bạch phải trái các thế hệ trí thức dấn thân. Năm 1978, tác phẩm The Logic of Scientific Discovery [Logic khám phá khoa học] của Karl Popper lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Pháp, đã khởi đầu cho thời kỳ hấp thu đều đặn vào dòng chính tư tưởng Pháp toàn bộ triết học và khoa học xã hội từ Anh-Mỹ, mà trong vài chục năm trước đó trí thức Pháp gần như không hề biết đến. Cũng trong năm này, nhà sử học François Furet cho xuất bản tác phẩm có tính đột phá Penser la Révolution Française [Nghĩ về Cách mạng Pháp], trong đó ông phủ nhận toàn bộ "giáo lý cách mạng", mà người Pháp trong nhiều thập niên đã được dạy để hiểu về đất nước và quá khứ của mình.

Trong bộ "Giáo lý" này, như Furet mổ xẻ, Cách mạng Pháp đã là khoảnh khắc tiêu biểu của thời hiện đại: Đó là cuộc xung đột khơi mào cho việc chia cắt Pháp thành các trường phái chính trị đối lập giữa Tả và Hữu, được xác định một cách hình thức dựa trên thành phần giai cấp của người trong phe nổi dậy. Câu chuyện này được xây dựng trên hai trụ cột đồng dạng là sự lạc quan thái quá đầu thế kỷ 19 và tầm nhìn Mác-xít về cải tổ xã hội cấp tiến. Theo cách nhìn của Furet, hai trụ cột đó đến nay đã hoàn toàn sụp đổ – nhất là vì cộng sản Xô-viết, người thừa kế ngai vàng cách mạng trong câu chuyện ngụ ngôn về cuộc cải tổ cấp tiến tốt lành này, đã đầu độc ngược toàn bộ di sản của mình. Cách mạng Pháp, dùng đúng chữ của Furet, thực ra đã "chết".

Tội ác hiện nguyên hình

Luận văn của Furet có ảnh hưởng chính trị rất lớn, như ông dự đoán. Sự thất bại của chủ nghĩa Marx như một đường lối chính trị là một việc – tuy luôn có thể đổ lỗi cho những biến động ngoài ý muốn hay hoàn cảnh khách quan – nhưng vấn đề nằm ở chỗ nếu chủ nghĩa Marx không còn là câu chuyện lớn, là đại tự sự – có nghĩa là nếu lý tính và nhu cầu tất yếu của xã hội không phải là những động lực thúc đẩy lịch sử nữa – thì mọi tội ác của Stalin, mọi sinh mạng bị hủy hoại, mọi tài nguyên bị phí phạm trong công cuộc thay đổi xã hội dưới sự chỉ đạo của nhà nước, mọi sai lầm và thất bại của những cuộc thí nghiệm cấp tiến mà loài người trong thế kỷ 20 trải qua, để xây dựng xã hội không tưởng bằng đường lối độc tài, sẽ không còn có thể được biện minh một cách "biện chứng" như những bước sai lầm nhỏ trên con đường đúng được nữa. Chúng hiện nguyên hình là những mất mát, phí phạm, thất bại và tội ác, y như những gì các nhà phê bình đã từng cảnh báo.

Furet và các trí thức trẻ đương thời bác bỏ thói quen viện dẫn lịch sử để biện minh, vốn là sắc thái riêng của giới trí thức dấn thân Châu Âu từ đầu thập niên 1930. Họ cho rằng không có một "đại tự sự" nào chi phối, điều động những biến chuyển trong hành vi của loài người, và vì thế không thể biện minh cho các chính sách hay việc làm của nhà nước gây khổ đau thật hôm nay, nhân danh những lợi ích tưởng tượng ngày mai. Đập trứng thì làm được món trứng tráng ngon lành, nhưng không ai có thể xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn bằng cách đập nát con người. Nhìn lại thì có thể thấy đây là một kết cuộc nhạt nhẽo, đầu voi đuôi chuột, sau mấy chục năm đấu đá lý thuyết và chính trị căng thẳng. Nhưng, đó cũng là bằng chứng cho thấy thời đại đã thay đổi đến mức nào.

Một thời đã qua

Năm 1969, phim Ma Nuit Chez Maud [Đêm tôi ở nhà Maud] của Eric Rohmer được trình chiếu, kể câu chuyện có tính ngụ ngôn về một triết gia cộng sản và một đồng nghiệp Công giáo tranh cãi nhiều giờ quanh những ý kiến mâu thuẫn của Pascal về Thượng đế và của lý luận Mác-xít về lịch sử. Giờ nhìn lại có thể thấy rằng điều đáng ngạc nhiên nhất không phải là những cuộc tranh cãi kia, vốn hết sức quen thuộc với bất cứ ai lớn tuổi còn nhớ về thập niên 1960 tại Châu Âu, mà là sự nghiêm túc theo dõi cuộc tranh cãi, không chỉ của nhân vật trong phim mà còn của hàng triệu người xem phim. Mười năm sau, đề tài này, nếu không kể cả bộ phim, đã trở thành cổ lỗ sĩ. Việc nhân danh lịch sử để biện hộ cho những chọn lựa chính trị không thể chấp nhận được đã trở nên một việc làm ngây thơ về mặt đạo đức, và thậm chí còn ác độc nữa. Như Camus đã nhận xét từ nhiều năm trước "Trách nhiệm với lịch sử đã khiến con người đánh mất trách nhiệm với đồng loại".[4]

Đi về đâu?                              

Sự hụt hẫng trước vai trò của "lịch sử" (và của lịch sử nói chung) mở màn cho một thập niên tệ hại đối với giới trí thức Tây Âu. Họ hiểu ra, và chẳng lấy gì làm vui, rằng sự tan vỡ những đại tự sự và các kế hoạch lớn lao của lịch sử sẽ là thảm họa cho tầng lớp có trách nhiệm chính trong việc phổ biến chúng bằng tài hùng biện của mình. Không những thế, giờ đây họ còn trở thành đối tượng của sự ghẻ lạnh, nhục mạ, và con số này dường như khá nhiều. Tháng 9, 1986, trong một lần trò chuyện riêng tiết lộ nhiều thông tin với một nhà báo Pháp, ông Pierre Bourdier, nhà xã hội học Pháp, đã tỏ lòng tiếc thương cho tình trạng ngã ngựa của giới trí thức dấn thân. Ông nói: "Với tôi, nếu còn một chính nghĩa lớn lao nào sót lại hôm nay, thì đó chính là việc bảo vệ những người trí thức."[5]

Sự hiến mình của giới trí thức trên bàn thờ lịch sử trước đây đã được Isaiah Berlin mô tả như "một hành vi bi tráng kiểu người Đức, khi chọn lựa vác thập giá đạo đức trên lưng". Nhận xét này hơi nặng với người Đức, vốn không phải là dân tộc duy nhất hạ mình hiến thân trên bàn thờ được gọi là quy luật tất yếu của lịch sử, mặc dù quả thật ý tưởng này có gốc rễ từ triết học lãng mạn Đức. Nhưng nhận xét này đã cho thấy một khoảng trống đang xuất hiện trong tư duy chính trị tại Châu Âu, đó là: nếu không còn những "chính nghĩa vĩ đại" nào nữa; nếu di sản cấp tiến đã gẫy cánh, đỗ vỡ; nếu không còn có thể vay mượn lịch sử, hoặc quy luật tất yếu của lịch sử, để biện hộ cho một hành động, một chính sách hay một dự án, thì người ta phải căn cứ vào đâu để biết đâu là vấn đề lớn của thời đại mình đang sống?

Câu hỏi này không là vấn đề đối với những người cấp tiến theo trường phái Thatcher [thủ tướng Anh thập niên 1980], vốn xem chính sách công là cánh tay nối dài của quyền lợi riêng, còn thị trường là bộ điều chỉnh vừa cần thiết vừa hữu hiệu cho các giá trị và thành quả. Câu hỏi này cũng không làm khó giới bảo thủ Châu Âu thời kỳ này, vì với họ thước đo tốt xấu trong cuộc sống con người được cắm neo trong các giá trị tôn giáo và quy ước xã hội – họ cũng bị trầy trụa đôi chút, nhưng không bị trận sóng thần văn hóa của thập niên 1960 cuốn phăng đi. Chỉ có những người cánh Tả cấp tiến, vốn là lực lượng chủ chốt trong sinh hoạt chính trị và văn hóa Châu Âu, mới là đối tượng bức bách, cần gấp một kịch bản khác.

Ngọn cờ mới

Điều họ tìm thấy, đáng ngạc nhiên thay, là một ngôn ngữ chính trị mới, hay nói đúng hơn là một ngôn ngữ rất cũ nay được làm mới lại. Đó là ngôn ngữ dân quyền, nhân quyền, các quyền tự do, là điều được viết trong tất cả mọi bộ hiến pháp tại Châu Âu, kể cả hiến pháp các nước Dân chủ Nhân dân trong khối cộng sản. Dân quyền và nhân quyền, như một lý tưởng hoặc nội dung chính trị, đã không được xem như một loại thời trang phù hợp tại Châu Âu trong rất nhiều năm trời. Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, các loại quyền, nhất là quyền tự quyết, đã giữ một vai trò cốt lõi trong mọi thương lượng về giải quyết hậu quả chiến tranh, hầu hết mọi quốc gia thành viên tại Hội nghị Hòa bình Versailles đã khẳng định quyền của mình một cách dứt khoát và mạnh mẽ khi đưa ra yêu sách với các đại cường. Nhưng đây là quyền của những tập thể, của các khối quốc gia, của các dân tộc, của các nhóm thiểu số.

Thêm vào đó, lịch sử cho thấy việc thực thi các quyền của tập thể này đã diễn ra không mấy êm đẹp. Khi có xung đột về quyền giữa hai hay nhiều hơn các cộng đồng sắc tộc hoặc tôn giáo, thường là về tranh chấp đất đai lãnh thổ, thì đáng buồn thay, phương pháp ưu tiên được dùng để giải quyết xung đột lại không phải là luật pháp, mà là vũ lực. Quyền của các sắc dân thiểu số đã không được bảo vệ trong một quốc gia, tương tự như vậy, quyền của các nước nhược tiểu đã không được bảo vệ trước yêu sách của các nước láng giềng hùng mạnh hơn. Những nước thắng trận khi Thế chiến thứ Hai kết thúc năm 1945, rút kinh nghiệm từ những hứa hẹn không thành của Hội nghị Hòa bình Versailles [1919], đã đi đến kết luận, như đã thấy, rằng quyền lợichung sẽ được thực hiện bằng một giải pháp hiệu quả hơn, dù đau đớn hơn, là sắp xếp lại lãnh thổ (sau này được gọi là thanh lọc chủng tộc). Còn với những người mất tổ quốc, họ sẽ không còn bị xem như một khối dị vật về pháp lý trong cộng đồng các quốc gia hay dân tộc, mà sẽ được xem như những cá nhân bị ngược đãi, những nạn nhân phải chịu đựng bất công.

Những thảo luận về quyền sau năm 1945, vì vậy, đã tập trung nói về quyền của cá nhân. Đây cũng là một bài học khác của chiến tranh. Mặc dù con người, nam lẫn nữ, bị đàn áp vì một nhân dạng chung (vì là dân Do Thái, dân du mục, dân Ba Lan…) họ đã phải chịu đau khổ như những cá nhân riêng lẻ. Chính những con người cá nhân này và quyền cá nhân của họ là đối tượng để tổ chức Liên Hiệp Quốc vừa thành lập đứng ra bảo vệ. Những Công ước về Nhân quyền, về Nạn Diệt chủng hoặc về Quyền Xã hội, Quyền Kinh tế được đưa vào luật quốc tế và hiệp ước quốc tế đã có tác động rất lớn đối với cảm nhận của công chúng: Những quyền này kết hợp những quyền tự do cá nhân được cổ vũ tại Anh, Mỹ trong thế kỷ 18 với những chủ trương vào giữa thế kỷ 20 về nhiệm vụ của nhà nước phải bảo đảm cho dân được hưởng các quyền ngày càng nhiều, từ lớn đến nhỏ, từ quyền được sống đến "quyền" được nghe "quảng cáo đúng sự thật", và hơn thế nữa.

Helsinski và quyền con người

Một sự kiện giúp đưa những ngôn ngữ pháp lý về quyền cá nhân vừa kể trở thành một thực tế chính trị – vào lúc chủ nghĩa Marx đang trên đà suy thoái – là Hội nghị về An ninh và Hợp tác Châu Âu tại Helsinski năm 1973, cùng năm tác phẩm Quần đảo ngục tù phát hành tại Paris. Cho tới thời điểm đó thì các cuộc thảo luận về quyền cá nhân không được coi trọng trong hàng ngũ cánh tả Châu Âu, phản ánh phần nào ảnh hưởng quan điểm đình đám của Marx cho rằng "cái được gọi là quyền con người" chỉ là thứ giá trị đầy ích kỷ và rất "tư sản". Trong những nhóm cấp tiến thì những cụm từ như "quyền tự do', "tự do" hoặc "quyền hạn" và những giá trị khác liên quan đến "con người nói chung" chỉ được đề cập tới một cách nghiêm túc khi đi kèm với những tính từ bổ nghĩa đi kèm như "tư sản", "vô sản" hoặc "xã hội chủ nghĩa".

Vì vậy mà vào năm 1969, một nhóm các nhà trí thức cánh tả của Parti Socialiste Unifié [Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất] tại Pháp đã chỉ trích đảng của mình (lúc đó do Michel Rocard và Pierre Mendes-France lãnh đạo) vì đã ủng hộ thành phần cải cách tại Praha [tạo nên Mùa Xuân Praha 1968 tại Tiệp Khắc]. Họ cho rằng những người cải cách ở Praha đã "tự nguyện trở thành nạn nhân của những lý tưởng tiểu tư sản (nhân bản, tự do, công bằng, tiến bộ, bầu cử tự do và kín, v.v.)." Đây không phải là trường hợp riêng lẻ. Vào thập niên 1960, rất nhiều nhà bình luận thiên tả tại Phương Tây, dù khuynh hướng chính trị trong nhiều trường hợp là khá ôn hòa, vẫn thường tránh dùng các ý niệm như "quyền" hoặc "tự do" vì sợ bị cho là ngây thơ chính trị. Trong khi đó thì ở Đông Âu, các nhà cải cách cộng sản và những người ủng hộ họ cũng tránh dùng những từ ngữ như vậy, nhưng vì một lý do khác, vì ý nghĩa của những cụm từ này đã bị bóp méo trong ngôn ngữ chính thống của nhà nước và không còn giá trị nữa.

Nhưng từ giữa thập niên 1970, điều trở nên ngày càng phổ biến là các diễn văn và luận văn thuộc mọi khuynh hướng chính trị tại Tây Âu đã không còn ngần ngại nói tới "quyền con người" và "quyền cá nhân". Như nhận định của một quan sát viên Ý đưa ra vào năm 1977, thì ý tưởng và lý tưởng về quyền tự do "không bị cắt xén" đã được cánh Tả đưa ra thảo luận rất cởi mở mà "không bị đánh tráo khái niệm, không mang tính tuyên truyền" lầu đầu tiên kể từ sau chiến tranh.[6] Tuy nhiên, những thảo luận này vẫn chưa trở thành một thực tế chính trị ngay lập tức – vì trải qua hầu hết thập niên 1980, các Đảng Xã hội Chủ nghĩa và Lao động tại Tây Âu đã chao đảo không gượng lại được, trong nhiều trường hợp họ phải loay hoay vay mượn công khai những chủ trương, chính sách của các đảng đối thủ để che bớt sự trần trụi của mình. Tuy vậy, sự cởi mở vừa có, cùng với từ vựng của các quyền con người và quyền tự do, đã cho phép các học giả và giới trí thức Tây Âu tiếp cận với ngôn ngữ đối lập chính trị đang biến chuyển mạnh tại Đông Âu, và cho họ một công cụ truyền thông để vượt qua rào cản ngăn cách đôi bên. Điều này đã diễn ra rất đúng lúc, vì chính ở phía đông của Bức màn Sắt mới là nơi đang diễn ra những thay đổi thực sự mới mẻ và lớn lao.

Nguồn: Tony Judt, Post War - A History of Europe Since 1945,Penguine Books, 2005

Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra



[1] Evgenia Ginzburg, Journey into the Whirwind (Harcourt, 1967); Margarete Buber-Neumann, Von Potsdam nach Moskau: Stationen eines Irrweges (Stuttgart: Deutsche Verlags-Anstalt, 1957); Wolfgang Leonhard, Child of the Revolution (Pathfinder Press, 1979), xuất bản lần đầu năm 1955 với tên Die Revolution entlässt ihre Kinder; Victor Serge, Mémoires d'un révolunionnaire (Paris, 1951); Boris Souvarine, Stalin. A Critical Survey of Bolshevism (xuất bản lần đầu bằng tiếng Anh năm 1939).[2] Giữa 1975 và 1981, chỉ riêng nước Pháp đã tiếp nhận 80.000 người tị nạn từ Đông Dương.

[3] Năm 1963, khá lâu sau khi không còn quan tâm tới những người cộng sản tại Pháp nữa, thì Jean-Paul Sartre, tác giả của cuốn Les Mains Sales [Những bàn tay bẩn], vẫn còn thuyết trình sôi nổi tại Praha về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trước một cử tọa những người cầm bút và giới trí thức Tiệp Khắc.

[4] 'La responsabilité envers l'Histoire dispense de la responsabilité envers les êtres humains'

[5] 'Pour ma part, je pense que s'il y a une grande cause aujourd'hui, c'est la defense des intellectuals'. Trích từ Le Nouvel Observateur, #1140, septembre, 1986. 'Les Grandes Causes, ca existe encore?'

[6] Antonino Bruno, Marxismo e Idealismo Italiano (1977), tr.99-100