Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013
TRẦN HUỲNH DUY THỨC : THƯ DẠY CON "BÀN VỀ MỐI QUAN HỆ NGHĨA - LỢI VÀ QUYỀN BẢO VỆ CHÍNH ĐÁNG QUYỀN LỢI CÁ NHÂN"
Xuyên Mộc 3/11/2013
Hôm nay là Chủ Nhật, buổi trưa ở đây vắng lặng hơn ở Xuân Lộc vì ít tiếng chim hót, dù là ở đây có nhiều cây xanh hơn. Ba thường chỉ chợp mắt 30' rồi buông mình vào suy tư "tôi tư duy là tôi tồn tại" là câu triết lý mà ba rất thích. Cai duy nhất tạo ra sự khác biệt của thế giới loài người với các loài động vật khác chính là khả năng suy nghĩ. Nhờ nó con người mới hiểu được các quy luật vũ trụ và sáng tạo ra các giá trị phục vụ cho mình.
Chủ nhật tuần sau là đám giỗ bà nội. Đã hai năm rồi ba chưa thắp được cho bà nội nén hương… Khi nội còn sống, có những điều ba chưa làm được cho nội cũng khiến ba thật chạnh lòng. Ông bà nội cũng như ông bà ngoại đã phải trải qua những tháng ngày cơ cực nhất để nuôi ba mẹ khôn lớn. Hai con sẽ rất khó hình dung ra được tình cảnh khốn cùng đó. Nhưng hồi đó ba không thấy khổ cực gì cả dù có phải ăn cơm lừng độn với khoai và thiếu chất đạm nghiêm trọng. Có lẽ do trẻ thơ hồn nhiên và sức trẻ nhiều nên ba cứ vui đùa cả ngày mà chẳng thấy chán. Thời gian khác thì làm lụng, chẳng có lúc nào mà nghĩ đến đau buồn, khổ cực. Nhưng khi lên cấp 3, vào cái tuổi mà người ta gọi là bắt đầu biết suy nghĩ, thì ba cũng bắt đầu cảm nhận được sự tuổi nhục của cái nghèo cái khổ. Ba vẫn còn nhớ như in cảm xúc vào buổi tối khi ba học lớp 11. Tối đó ba đi chơi về trễ nên rất đói, nhưng nhìn phần cơm đã để riêng cho ba thì ít hơn mọi bữa nên ba rất tức giận. Có lẽ ai đó trong nhà vì quá đói đã lén ăn bớt. Ba đã định giãy nãy với bà nội vì chuyện này. Nhưng lúc đó bà Nội đang ngồi trên võng và kéo suyễn nên ba dằn lòng lại trong một lát. Rồi ba nghĩ nếu mình là bà nội, ông nội phải chứng kiến cảnh con mình thiếu ăn như vậy dù đã làm hết sức mình, thì mình phải đau khổ đến mức nào. Một cảm giác kinh khủng chiếm lấy ba, rồi sau đó là ân hận. Ba ôm tô cơm nguội độn khoai chan với nước tương ăn cùng vài cọng rau muống ngồi ăn trên bậc thềm tam cấp trước chiếc võng của bà nội, ăn ngấu nghiến. Bà nội hỏi ba chơi ở đâu mà về trễ, rồi hỏi ba ăn có no không, ba nói dối là đủ no. Ba hỏi bà nội "Nếu sau này nhà mình có tiền, má thích ăn gì và muốn làm gì?". Bà nội chắc có lẽ vì không đọc được quyết tâm của ba nên trả lời rằng "Có cơm cho tụi con đủ ăn mà không phải độn là vui lắm rồi, nghĩ gì đến nhiều tiền con". Ba cười với nội và không nói gì.
Kể từ đó ba quyết tâm mãnh liệt sẽ làm cho gia đình mình hết nghèo và sống đầy đủ. Ba không bao giờ quên tự nhắc mình về ý thức trách nhiệm này từ ngày ấy. Ba đang viết mà thấy nhớ nội quá… Rạng sáng hôm qua ba tỉnh giấc khi đang mơ được ôm nội và thổn thức. Ba thấy mình vừa ra tù là chạy ngay đến chỗ nội. Trong mơ nội vẫn còn sống. Ba quỳ dưới chân nội và ngã vào lòng bà nội ngã vào lòng nội, cảm giác như hai câu thơ ba làm lúc còn ở B34: "Con về bên má quỳ thưa, bão giông tan hết gió mưa thuận hoà". Hơn 30s sau khi tỉnh giấc ba mới nhận ra là mình đang mơ. Rồi ba buồn vì nội không còn trong vòng tay ba nữa. Ba không ngủ lại được nhưng cảm giác dần vui lên vì tin rằng hẳn nội rất thương nhớ ba nên thường hay về thăm ba trong mộng.
Gần 5 năm qua hai con của ba lớn lên trong tình yêu thương vô bờ của mẹ nhưng thiếu vắng sự chăm sóc của ba. Ba rất biết ơn mẹ đã không để hai đứa con thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, và con truyền được nghị lực và niềm tin để tụi con vững bước trên chặng đường chông gai vừa qua. Ba cũng rất hạnh phúc vì 2 đứa đã không phụ thuộc tình thương yêu của ba mẹ mà cố gắng vương lên để xứng đáng với điều đó. Càng lớn tụi con sẽ càng hiểu tình yêu mà mẹ giành cho mình là bao la đến thế nào.Đến khi mình có con thì mới thực sự hiểu sau sắc thế nào là tình mẫu tử. Bao năm qua các con là mục đích sống của mẹ, là động lực để mẹ vượt qua giông bão. Ba rất vui vì thấy rằng hai đứa đã cảm nhận và thấu hiểu được điều đó. Hãy cố gắng hơn nữa để xứng đáng với những gì mà mẹ đã giành cho tụi con nha!
Ngày 4/11/2013
Hôm nay ba muốn trao đổi với hai bạn nhỏ về chữ "Lợi" và ứng xử với cái lợi như thế nào?
Văn hoá nho giáo xem lợi là cái xấu khiến cho tâm lý con người ngại khi nói về cái lợi. Nền văn hoá đó còn tạo ra được tiêu chuẩn đạo đức mà người ta được ca ngợi khi từ bỏ cái lợi dù là rất chính đáng của mình. Nho giáo xây dựng hai mặt đối lập nhau giữa "nghĩa" và "lợi" thậm chí là phủ định lẫn nhau. Nó cho rằng người ta vì lợi mà mất nghĩa muốn có nghĩa thì phải từ bỏ lợi, không thể vừa có được lợi vừa có được nghĩa và nghĩa thì có thể tạo ra lợi nhưng lợi không thể tạo ra nghĩa. Cái tư tưởng này ra đời vào bối cảnh cổ đại Trung Quốc bắt đầu xuất hiện những phong trào mà các tầng lớp dân bị trị bắt đầu đòi hỏi quyền lợi của mình. Các phong trào này lúc đó được hỗ trợ bởi các học thuyết tư tưởng tiến bộ hơn của Mặc Gia(vì lợi ích của giới tiểu thủ công nghiệp), Dương Gia (đại diện cho lợi ích của người sở hữu đất đai nhỏ - tiểu nông và địa chủ nhỏ) hay Nông Gia (vì lợi ích của người nông dân). Giới cai trị phong kiến lúc đó lung túng và lo sợ các phong trào này phát triển sẽ ảnh hưởng đe doạ đến quyền lợi của họ. Do vậy thuyết "nghĩa" và "lợi" của Nho Giáo đã nhanh chóng trở thành điểm tựa cho các tầng lớp này sử dụng để áp chế các đòi hỏi chính đáng của người dân, biến những đòi hỏi trở thành điều xấu xa về mặt đạo đức. Họ đã thành công nhờ nắm quyền lực trong tay. Nhưng hậu quả của việc này đã làm Trung Quốc lụn bại trở thành gã khổng lồ bạc nhược và bị xâu xé cho dù nó đã phát triển và đạt được những thành tựu vĩ đại trước các nước phương Tây đến cả ngàn năm (kiếm những thành tựu này). Nguyên nhân là nó đã tạo nên một nền văn hoá ứng xử tiêu cực mà ba đã viết từ lần trước, ở đó nhào nặn ra những con người cam chịu và thụ động. Họ không dám, thậm chí không có ý thức đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của mình mà chỉ trông đợi vào sự ban phát ân huệ từ vua – quan. Nền văn hoá này ảnh hưởng sâu sắc đến các nước Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc khiến các nước này chậm phát triển mấy trăm năm so với sự tiến bộ của thời đại.
Tình trạng này chỉ thay đổi ở nước nào mà cái tư tưởng "nghĩa đối nghịch lơi" sai làm nói trên bị thay đổi bằng những quan điểm ứng xử đúng đắn về lợi.
Lợi nghĩa rộng bao hàm cả quyền lợi, ích lợi, cả vật chất lẫn tinh thần.
Lợi là động lực tự nhiên của con người mà nhờ đó cả xã hội loài người mới phát triển. Con người càng làm lợi cho mình thì xã hội càng phát triển.
Con người hành động vì lợi không có gì là sai trái cả.Hành động tốt hay xấu là do cách người ta làm ra lợi và dùng lợi ứng xử với những người khác nhau như thế nào.
Lợi và nghĩa không phủ định nhau mà có thể cùng tồn tại với nhau trong cùng một hành động
Điều tốt đẹp sẽ xảy ra khi ứng xử của con người và đạo đức xã hội cân bằng được giữa lợi và nghĩa. Và cái xấu sẽ hoành hành khi sự cân bằng này bị thiên lệch về lợi hay nghĩa.
Đối diện với một xã hội bị cho là suy thoái về đạo đức thì nguyên nhân thường được người ta gán cho là sự ích kỉ cá nhân vì những biểu hiện hay thấy là con người phần lớn ứng xử với nhau vì lợi riêng. Giải pháp sai lầm trong trường hợp này là đánh vào chủ nghĩa cá nhân với hy vọng triệt tiêu hoặc ít ra là hạn chế động cơ hám lợi của con người. Nhưng tự cổ chí kim từ Đông sang Tây, hành động vì lợi là một động lực tự nhiên của con người mà không một ai có thể thay đổi được. Động lực đó càng mãnh liệt khi cái lợi đó là lợi riêng. Do vậy sự áp chế bằng quyền lực thực chất là đè nén các động lực này chỉ dẫn đến những biến tướng tai hại, một trong những cái xấu nhất của nó là thói đạo đức giả. Nhiều người hành động vì lợi nhưng che dấu bằng nghĩ. Lắm kẻ dùng lợi chung để thủ lợi riêng. Những lễ nghĩa được cho là đạo đức tốt đẹp chỉ tồn tại trên danh nghĩa, sách vỡ mà có khi người ta dùng chúng để tranh giành và trừng phạt lẫn nhau. Còn trong thực tế thì mối quan hệ xã hội giữa con người với nhau được chi phối bằng các mối quan hệ thuần tuý vật chất. Ở một tình trạng nhẹ hơn đạo đức giả là thói quen tâm lý vòng vo khiến xã hội hoạt động không hiệu quả. VD: một người muốn được trả lương xứng đáng với năng lực, thành quả mình làm ra được. Nếu là người Singapore thì người ấy sẽ rất thẳng thắn đề nghị cấp trên tăng lương kèm theo những chứng minh về năng lực của mình, nhưng nếu là ở Trung Quốc hay Việt Nam thì tụi con sẽ thấy người làm thuê rất ngại nói về những điều như vậy vì có tâm lý sợ người khác nghĩ mình "trọng tiền bạc". Từ đó họ dùng nhiều cách vòng vo khác nhau để đạt được mục đích của mình, cách xấu nhất là làm cho đồng nghiệp của mình hiệu quả thấp hơn mình. Cách được cho là khéo léo và tế nhị nhất là xin nghỉ việc vào lúc mình đang làm việc hiệu quả nhất.
Còn rất nhiều các tác động tiêu cực khác của các giải pháp sai lầm nói trên mà hai đứa hãy quan sát và phân tích để thấy rõ. Ở đây ba muốn nhấn mạnh một tác động xấu nhất của nó là triệt tiêu mất động lực phát triển. Đây là nguyên nhân căn bản khiển các nước theo văn hoá Nho Giáo bị đẩy lùi xa phía sau kể từ thời trung đại đến thế kỉ 18, 19 và 20. Ở các nước này, trong hàng ngàn năm, các lễ giáo kiểu "trọng nghĩa khinh tài" (tài là tiền chứ không phải tài năng) không chỉ được nhồi nhét giáo dục cho con người từ nhỏ mà còn được luật hoá để trở thành các quy tắc ứng xử bắt buộc cho quan lại và dân thường. Vi phạm các quy tắc này sẽ bị phạt tiền và tù. Nhưng thực tế thì chẳng mấy khi quan lại bị phạt mà hầu hết dân thường bị lãnh đủ. Do vậy, cũng từ xuất phát từ động lực tự nhiên của con người là lợi nên người dân dần dần hướng đến những gì thiệt hại ít nhất cho mình khi không làm đc gì sinh ra lợi. Điều này cuối cùng tạo ra một xã hội ở tình trạng mà con người chẳng dám, chẳng dại làm gì mà quan lại không muốn, chỉ thụ động chờ sự ban phát. Sự chủ động phổ biến nhất mà họ có thể làm là đút lót.
Như vậy không thể triệt tiêu lợi riêng để có lợi chung, cũng chẳng thể tập trung cho lợi chung để có lợi riêng. Trong thời kì kinh tế bao cấp, mọi người được hướng toàn bộ vào phục vụ lợi chung nhưng hiệu quả thực sự là rất thấp mà tụi con đã được nghe nói nhiều. Sự đổi mới kinh tế đã tạo ra thành tựu ở Trung Quốc và Việt Nam về bản chất chính là làm cho con người có quyền làm lợi cho mình.
Tuy nhiên, giải pháp đúng đắn nhất cho tất cả các vấn đề nêu trên là làm sao để con người cân bằng được giữa lợi riêng và lợi chung thì xã hội sẽ cân bằng được giá trị vật chất và tinh thần. Các giải pháp cực đoan nhằm triệt tiêu phía này hay phía kia đều phá vỡ sự cân bằng này đều làm cho xã hội suy thoái và/hoặc phát triển thiếu bền vững, gây ra rất nhiều những vấn nạn. Đề tài "làm sao để cân bằng được các giá trị trong cuộc sống" ba đã trao đổi với hai bạn trẻ hồi 2 năm trước. Ngày mai ba sẽ trao đỗi kĩ hơn về nó trên phương diện những ứng xử cá nhân. Giờ thì ba xem film 18h trên VTV3 "Quý bà Go Bong Shit" (rất giống mẹ hihi).
Ngày 5/11/2013
Ứng xử cá nhân của mọi người quyết định nên tầm thức văn hoá của cả một dân tộc vì đó là ứng xử của số đông đa số. Rồi tầm thức này lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến ứng xử cá nhân. Cứ như vậy tác động qua lại như hình xoắn ốc, có thể đi lên và tạo nên sự thăng hoa, nhưng cũng có thể đi xuống và dẫn đến lụn bại. Do vậy, như thư trước ba đã viết, việc giáo dục để định hình văn hoá ứng xử cá nhân để có được một tầm thức văn hoá tiến bộ của một dân tộc là hết sức quan trọng, quyết định mức độ thịnh vượng và văn minh của quốc gia. Ba sẽ so sánh giữa nước Anh và Trung Quốc để tụi con thấy rõ được điều này.
Trung Quốc: Một quốc gia có lịch sử và nên văn minh lâu đời nhất trên thế giới. Rất nhiều phát minh quan trọng về Vật Lý, Thiên Văn, Toán Học được người Trung Quốc tìm ra hàng trăm, hàng ngàn năm trước cả châu Âu. Tư tưởng triết học của người Trung Quốc cũng hình thành rất sớm như ở Hy Lạp và Ấn Độ. Các tư tưởng này cũng rất đa dạng và phong phú nhưng Nho Giáo lại chiếm giữ vai trò thống trị xuyên suốt trong gần 2500 năm trong hầu hết các triều đại của TQ. Trong quá trình này Nho Giáo đã có rất nhiều cải biến nhưng bản chất của nó vẫn là những căn bản được xác lập bởi Khổng Tử - người sáng lập ra Nho Giáo. Các tư tưởng này ăn sâu vào mọi tầng lớp xã hội, biến nó thành một loại hiến pháp tự nhiên không phải bàn cãi, không cầu thay đổi. Do đó nó làm xã hội và con người TQ trở nên xơ cứng từ thời kì cận đại trước những biến đổi sâu sắc và nhanh chóng ở Châu Âu vào thời đó. Từ sau thế kỉ 15 TQ trở nên suy thoái nhanh chóng, tỉ lệ nghịch với tốc độ phát triển nhanh chóng ở Châu Âu. Đến cuối thế kỉ 18 thì TQ hoàn toàn lệ thuộc và sự điều khiển và xâu xé của các nước Phương Tây và kể cả Nhật Bản – một nước nhỏ hơn TQ rất nhiều và từng là chư hầu của TQ (như VN) nhưng đã kịp thay thế Nho Giáo từ thế kỉ 19. Có rất nhiều nguyên nhân làm Nho Giáo bám chặt lâu dài vào xã hội Trung Quốc. Nhưng theo ba một trong những nguyên nhân quan trọng là người Trung Hoa quá đặt nặng vấn đề sắc tộc trong ý niệm về dân tộc và quốc gia. Do đó Nho Giáo dễ dàng xây dựng tinh thần dân tộc và niềm tin về chủ quyền quốc gia xung quanh một gia tộc được đại diện bởi một người là Hoàng Đế. Từ đó sức mạnh dân tộc để bảo vệ chủ quyền quốc gia được biến thành để bảo vệ cho một triều đại. Nghiên cứu lịch sử các cuộc cách mạng ở Trung Quốc thì tụi con sẽ thấy rằng những cuộc đấu tranh của người Trung Quốc nhằm để cải thiện và bảo vệ quyền lợi của mình thì rất yếu ớt và luôn thất bại. Còn các cuộc cách mạng lật đổ và thay đổi triều đại thì luôn khốc liệt và đẫm máu lại thường dẫn đến thành công. Nhưng các cuộc cách mạng này không mang lại nhiều thay đổi về quyền lợi và lợi ích của quần chúng một cách thực chất. Rất nhiều lần thay đổi triều đại nhưng các chế độ mới đều là quân chủ chuyên chế, chủ quyền quốc gia thuộc về một người, một nhóm người. Nhìn một cách biện chứng thì có thể nói rằng nguyên nhân của tình trạng trên là vì thiếu ý thức đấu tranh thực sự cho quyền lợi của mình mà lại bị lợi dụng cuốn theo các cuộc đấu tranh vì quyền lợi của một nhóm người nhân danh dân tộc, quốc gia.
Nước Anh: là một quốc gia chưa hình thành vào thời cổ đại và vẫn còn chậm phát triển ở thời trung đại so với nhiều quốc gia khác ở Châu Âu vào thời đó như Pháp và Đức. Từ thế kỉ X trở đi Anh bắt đầu phát triển rồi trở thành quốc gia hùng cường nhất Thế Giới và mãi đến giữa thế kỉ 20, góp phần tạo nên sự thịnh vượng cho thế giới trong nhiều thế kỉ. Tui con đã học lịch sử nên biết nhiều nguyên nhân của kỳ tích này. Ở đề tài này ba sẽ phân tích nguyên nhân ở khía cạnh ứng xử cá nhân. Người Anh không coi trọng yếu tố sắc tộc trong tinh thần dân tộc và không gắn nó với chủ quyền quốc gia. Như tụi cọn biết, năm 1066 công tước William xứ Normandy của nước Pháp đã giao chiến với vua Anh lúc đó là Harold – một người Anglo Xắcxông gốc (chủng tộc chủ yếu của người Anh). Harold bại trận do người Anh không quan tâm nhiều đến cuộc chiến này. Họ chỉ xem đây là cuộc chiến tranh giành ngôi báu. Thay vào đó họ làm một điều mà người Châu Á cảm thấy rất khác thường. Đó là, họ ra điều kiện cho William muốn làm vua Anh thì phải ký vào bản cam kết sẽ luôn bảo vệ quyền lợi cho người dân Anh với những yêu cầu rất cụ thể. William đồng ý và được dân Anh tuyên làm vua nước mình. Điều thú vị là William là người Pháp và còn không biết nói tiếng Anh hơn nữa lúc đó Pháp vẫn là đối thủ của Anh. Nhưng William đã thực hiện đúng cam kết, tăng nhiều quyền lợi cho dân Anh và hi sinh một số đặc quyền của vua Anh so với các triều đại trước đó. Những cải cách này đã làm Anh phát triển tốt đẹp, trở nên hùng mạnh hơn nên càng là đối thủ đáng gờm hơn của Pháp. Sử gọi triều đại này là triều đạ Normandy, cũng là một thời kỳ phát triển quan trọng về văn học, văn hoá, kinh tế,… của nước Anh. Triều đại này kết thúc qua sự kiên vua John phải kí vào bản đại hiến chương vào năm 1215. John là hậu duệ của Vua William nhưng đã tiến hành chiến tranh với chính xứ Normandy-nguồn gốc của chính gia tộc này. Năm 1213 để có tiền thực hiện cuộc chiến này, vua John đã tăng thuế lên cao. Người dân Anh đã phản đối mạnh mẽ và dựa vào tuyên bố "Đặc quyền lệnh của Henry I" (Là vị vua kế nhiệm đời thứ 2 của vua William) để tuyên bố rằng vua John đã vi phạm cam kết với dân Anh. Họ cử đại diện là 25 Nam Tước chuẩn bị sẵn một bản thoả thuận trong đó buộc vua John nếu không muốn bị dân nổi dậy và chống lại phải kí vào. Đó chính là bản đại hiến chương nói trên. Nội dung cơ bản của nó như sau:
- Thần dân có quyền và phải luôn được đảm bảo tài sản và an toàn thân thể, tính mạng.
- Trong quan hệ giữa dân và vua, dân có quyền phản kháng bạo quân.
- Ngoài tô thuế phong kiến, vua không có quyền thu thêm bất kì một loại thuế hay quyên góp nào khác trừ khi được sự đồng ý của toàn quốc.
- Chưa trình ra phán quyết hợp pháp và thẩm xét của luật pháp trong nước thì không được bắt bớ bất kì người tự do nào.
Tụi con sẽ không tìm thấy bất kì một tuyên bố tương tự nào như thế ở Trung Quốc trong suốt mấy ngàn năm, mãi đến đầu thế kỉ XX. Sự tiến bộ này của người Anh cũng khác biệt và vượt lên hẳn so với nhiều nước châu Âu thời đó. Chính nhờ vậy mà nước Anh đã bức phá ngoạn mục. Sự kiện Đại Hiến Chương đã dẫn đến việc tiến hành thành lập nghị viện, rồi từng bước nghị viện dần giành được quyền lập pháp, biến Anh thành cái nôi của nên dân chủ trong thời kì cận và hiện đại của thế giới. Do tính cách của người Anh luôn thẳng thắn đòi hỏi và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình như vậy nên sự thay đổi các triều đại ở Anh rất ít xảy ra, và khi diễn ra lại rất ít đẫm máu cũng không kéo dài gây lầm than cho dân Anh. Sự kiện đẫm máu nhất là cuộc cách mạng 1640, cũng xuất phát từ sự việc lúc đó là vua Charles I cần tiền nên cũng tăng thuế nhưng không được nghị viện Anh chấp nhận. Charles I giải tán nghị viện nhưng các đại biểu nghị viện vẫn không nhượng bộ nên ông ta liều lĩnh tấn công – bắt giam các lãnh đạo của nghị viện. Người dân Anh thực hiện các quyền đã được thoả thuận của mình, tự vũ trang đứng lên ủng hộ các nghị sĩ chống lại nhà Vua. Mấy năm đầu, quân đội nhà vua thắng thế nhưng đến năm 1649 thì lực lượng vũ trang nhân dân đảo ngược tình thế. Họ bắt giữ và xử tử Charles I. Nhưng cuộc cách mạng không vì thế mà kết thúc ngay được vì nó được khởi nguồn bằng bạo lực và đáp trả bằng bạo lực. Những cuộc thanh trừng và tranh giành bằng bạo lực vũ trang vẫn diễn ra hơn 10 năm nữa. Đến năm 1660, chính những người đã lật đổ Charles I lại ủng hộ con của ông ta lên làm vua gọi là Charles II. Đến đây cuộc cách mạng này mới chấm dứt cùng với sự tang tóc của nó. (Tóm lại không cần kể người làm vua là ai chỉ cần đảm bảo được quyền lợi của dân Anh thì người đó được ủng hộ). Từ bài học này nên kể từ đó về sau người Anh không có thêm bất cứ một cuộc cách mạng bạo lực nào nữa cho mãi đến bây giờ. Một sự cải cách thay đổi sâu sắc các vấn đề chính trị cốt lõi của nước Anh được diễn ra hoàn toàn trong hoà bình vào năm 1688. Đó là cuộc cách mạng Quang Vinh mà tụi con đã học. Thay thế những cuộc cách mạng bạo lực & lật đổ là các cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật lừng lẫy từ nước Anh và lan rộng ra cả chau Âu rồi sau đó ra toàn thế giới. Chúng đã tạo nên thành tưu vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của nhân loại, biến đổi sau sắc điều kiện sống của loài người.
Từ lúc hình thành nên quốc gia, nước Anh đã trải qua vài lần thay đổi triều đại. Bản chất của các chế độ này đã thay đổi từ toàn quân chủ sang toàn dân chủ. Nhưng hình thức của chúng thì gần như không có thay đổi gì đáng kể, vẫn là vua hay nữ hoàng là người đứng đầu đất nước. Điều này chứng tỏ người dân Anh chỉ quan tâm đến thực chất – tức là những gì thực sự mang đến quyền lợi thiết thực cho người dân, chứ không dễ bị hình thức của các tên gọi triều đại, chế độ làm cho ảo tưởng. Sự quyết tâm người anh bảo vệ quyền lợi của mình đã buộc những người cầm quyền phải đáp ứng để có thể duy trì sự tồn tại và quyền lợi hợp lý cho mình.
Từ sự so sánh giữa lịch sử TQ và Anh như trên ta có thể rút ra những kết luận sau:
- Văn hoá ứng xử cá nhân của đa số người dân quyết định sự phát triển hoặc suy thoái của dân tộc, quốc gia.
- Mọi người cần có quyền và cần hành động để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Đòi hỏi quyền lợi cho mình là không có gì xấu xa hay sai trái
- Những cuộc cách mạng thay đổi triều đại, chế độ thì không chắn chắn sẽ dẫn đến thay đổi tốt hơn cho người dân. Nhưng những cuộc cải cách bởi áp lực của quần chúng đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình thì luôn dẫn đến những sự thay đổi tốt đẹp cho toàn xã hội
Ngày 6/11/2013
Nhìn từ quan điểm cân bằng các giá trị trong cuộc sống thì thấy người Anh đã cân bằng tốt giữa lợi riêng và lợi chung, giữa cá nhân và quốc gia. Trong khi người TQ thường đề cao lợi chung của quốc gia mà đè nén lợi riêng của cá nhân. Nhưng thực tế thì một số ít tầng lớp vua quan trên cùng của xã hội mới được hưởng lợi lớn.
Đọc sách của Trung Quốc thì tụi con thường thấy họ đề cao và kêu gọi quan lại hi sinh quyền lợi của mình và gia đình mình để chăm lo cho lợi ích của dân chúng. Nhưng tụi con sẽ thấy quan điểm "không chăm lo được cho mình và gia đình mình thì nói gì đến chăm sóc cho quần chúng" lại rất phổ biến ở Anh và các nước phương Tây.
Tuy vậy, như ba viết ở thư trước không nên du nhập thụ động hay buông thả theo các xu hướng văn hoá mới, mà phải tiếp nhận chúng một cách chủ động để tạo ra sự giao thoa tích cực. Văn hoá chỉ giao thoa được khi nó tìm ra được các điểm cân bằng. Mà sự cân bằng quan trọng nhất là sự cân bằng giữa riêng và chung. Một người mà chỉ chăm chăm vào lợi ích riêng của mình thì sẽ trở nên ích kỉ. Nếu chỉ nghĩ đến lợi ích chung thì sẽ trở nên mất gốc và ảo tưởng. Nếu chỉ chăm lo cho gia đình mình thì sẽ trở nên hẹp hòi và đánh mất cơ hội được tương trợ và hạnh phúc từ cộng đồng.
Nhìn rộng và sâu hơn nữa từ khía cạnh cân bằng và giao thoa văn hoá thì cần thấy rằng ứng xử của cá nhân nói riêng và số đông nói chung không nên có văn hoá phủ định những gì khác mình. Mình có quyền phê phán những gì thấy không tốt cho mình hoặc cho lợi ích chung để những điều đó có thể trở nên tốt hơn. Với thái độ như vậy thì con người sẽ tìm ra được những điểm chung để cân bằng lợi ích của nhau. Còn khi người ta chỉ nhằm mục đích phủ định lẫn nhau thì sẽ luôn xung đột lật đỗ lẫn nhau và đi kèm với các hành vi bạo lực rất khó tránh khỏi. Nghiên cứu kĩ hơn về Anh và TQ thì tụi con sẽ thấy rõ điều này. Hì hì đề tài lần này nhức đầu quá phải không hai bạn nhỏ. Nhưng ba biết rằng nó rất quan trọng và cần thiết. Lần sau ba sẽ trao đổi một đề tài vui vẻ và thú vị hơn ha.
Tháng này là sinh nhật mẹ. Hai đứa hãy chuẩn bị cho mẹ một món quà thật ý nghĩa nha. Hãy mang cho mẹ nhiều niềm vui thật thật lớn. Sau đó là sinh nhật ông nội nữa. Bé Quân thử làm một vật kỉ niệm tặng ông nội xem. Đến tháng sau đến giáng sinh và tết Tây, tụi con đừng quên gửi thiệp chúc bác Hans và Ronate. Theo văn hoá người phương Tây, những sự quan tâm như thế rất có ý nghĩa.
Ba yêu hai con gái cưng của ba lắm! Ba mong một ngày không xa sẽ thấy hai đứa thành đạt và hạnh phúc. Rồi tụi con sẽ nhớ về thời gian này như những kỉ niệm đẹp, Có nhiều điều không được may mắn với gia đình mình lúc tụi con còn nhỏ. Nhưng hai đứa đã có được sự may mắn nhất trong đời đó là mẹ. Hơn nữa, ông ngoại là người ông tuyệt vời nhất mà tụi con có được trong cuộc đời này. Ba tin tụi con cũng cảm nhận được như vậy, và đó chính là hạnh phúc!
Ba vừa điện thoại về cho cô sáu, biết được là ngày mai gia đình sẽ lên thăm. Ba nhớ cả nhà lắm rồi nhất là bé Quân xinh đẹp. Ba dừng ở đây nham lần sau ba sẽ viết thư cho mẹ nhân dịp sinh nhật.
Hôn ba mẹ con
Ba Thức
TB: dạo này ba bắt đầu trồng bông ở khoảng đất nhỏ phía trước buồng. Chắc một tháng nữa sẽ đẹp hihi!
RFA. Còn gì ở một người tù chính trị 14 năm
Hai cựu tù chính trị Huỳnh Anh Tú và Huỳnh Anh Trí vừa mãn án 14 năm tù vào ngày 29 tháng 12 vừa qua.
Hai anh em này bị bắt và kết án tù vì tham gia một tổ chức chính trị được thành lập ở hải ngoại do ông Nguyễn Hữu Chánh đứng đầu.
Sau khi mãn án tù, một trong hai anh em là ông Huỳnh Anh Trí, 44 tuổi, có cuộc nói chuyện với biên tập viên Gia Minh của Đài Á Châu Tự Do.
Trước hết ông Hùynh Anh Trí nói sơ về tình cảnh của bản thân và gia đình hiện nay:
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Tình cảnh gia đình tôi hiện nay bị ly tán: mẹ tôi qua đời cách đây khoảng ba năm, bà không kịp chờ…Cha tôi năm nay 70 tuổi vẫn phải lang thang nơi đất Thái. Anh hai tôi đã chết, hai anh em tôi ở tù, và tôi còn mấy người em lang thang trên đất Thái.
Tôi nói lên đây là nói sự thật chứ không có ý gì. Quí vị hỏi thì tôi nói vậy thôi, xin quí vị hiểu ý tôi.
Sau 14 năm tù về, hai anh em tôi không biết ở đâu cả.
Gia Minh: Như vậy người kia là anh hay em của ông, đã về chưa và cả hai anh em bị giam chung hay khác nhau?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Anh Huỳnh Anh Tú, bị bắt cùng ngày và cùng mức án. Anh tôi cũng bị chuyển đến trại Xuân Lộc và rồi từ từ họ chuyển qua bên An Phước, tôi chuyển qua bên Xuyên Mộc, Bà Rịa- Vũng Tàu.
Gia Minh: Như vậy ông bị chuyển qua Xuyên Mộc, Bà rịa- Vũng Tàu sau vụ ngày 30 tháng 6 vừa rồi?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Vâng.
Gia Minh: Họ có cho biết lý do chuyển hay không?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Họ không nói chuyển và cách giam giữ là quyền của họ. Tôi đơn cử việc quí vị giữ một con chó trong phòng, buổi sáng cũng phải mở cho nó đi tiêu tiểu. Chúng tôi họ giam hai người trong một phòng và một dãy từ buồng 1A đến 10A họ không mở cửa cho gặp mặt nhau. Họ nói không có qui định. Giam giữ thế nào là quyền của họ.
Gia Minh: Người bị giam chung với ông là ai?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Đó là anh Trần Hoài Anh, người Đồng Tháp, đạo Hòa Hảo.
Gia Minh: Qua tất cả những nhà tù từ khi bị bắt hồi năm 1999 và sau 14 năm trong các nhà tù làm sao ông có thể vượt qua được?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Nếu là con vật thì đã chết rồi, vì con người có ý chí nên tôi còn sống. Có những người đã ra đi- đầu bạc, đầu xanh… nếu kể thì không thể kể hết. Tôi nghĩ có một đấng thiêng liêng nào đó- có thể là Đức Chúa, Đức Phật luôn ở trên đầu chúng tôi, luôn soi sáng cho chúng tôi để có ý chí vượt qua những khó khăn.
Gia Minh: Ngoài ý chí, ông còn tin tưởng gì nữa để có thể giúp ông vượt qua 14 năm dài tù tội như thế?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Tôi nghĩ một ngày nào đó chính quyền Việt Nam hiện tại phải thừa nhận và phải chấp nhận những quyền con người mà họ đã ký, cho phù hợp với những công ước quốc tế. Tôi nghĩ thế.
Gia Minh: Trong thời gian 14 năm qua các nhà tù, ông có gặp được những người tù khác để chia xẻ niềm tin, tin tưởng như ông vừa nói không?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Tôi gặp rất nhiều, cả doanh nhân, luật sư, linh mục, nhà tu… Ví dụ nhà tu như Huỳnh Văn Ba, tức Thích Thiện Minh, những tu sĩ Dòng Đồng Công như Nguyễn Viết Minh, Phạm Minh Trí , Nguyễn Minh Triết đạo Hòa Hảo… và rất nhiều người khác; đặc biệt một người tù ở lâu nhất nước Việt Nam- Nguyễn Hữu Cầu. Sau 6 năm cải tạo về, tính đến nay bị 27 năm tù, ra đời vài tháng lại bị tù. Tôi nghĩ pháp luật Việt Nam phải xem lại trường hợp anh Nguyễn Hữu Cầu. Tôi là người giúp ông khi bị mù. Một người bị mù từ nhỏ khác còn đây bị mù trong tù thì quí vị hiểu.
Rất nhiều tổ chức, đảng phái… Tôi còn gặp những người khác như Trần Huỳnh Duy Thức, Đinh Nguyên Kha,Nguyễn Ngọc Cường, Phan Ngọc Tuấn.
Nếu kể thì biết bao cho hết.
Gia Minh: Như vậy Đinh Nguyên Kha là người tù chính trị mới nhất ông được gặp.
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Vâng, tại nhà tù Xuyên Mộc, còn có hai người tù thuộc Liên đoàn Kampuchia Krom.
Gia Minh: Trước khi ra tù cán bộ trại giam có yêu cầu ông điều gì không?
Cựu tù nhân Huỳnh Anh Trí: Đương nhiên họ muốn ra tù chúng tôi không 'quậy' nữa. Tuy nhiên tôi nghĩ đối với chính quyền Việt Nam, luật pháp Việt Nam nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng xong. Luật pháp đứng trên Hiến pháp, luật thể hiện khác thì quyền con người sẽ bị dẫm đạp. Tôi nghĩ không ai có thể bảo vệ được quyền con người khi bị dẫm đạp; tôi dẫn chứng điều 20 Hiến pháp trái chiều với điều 38 luật thi hành án.
Gia Minh: Cám ơn ông Huỳnh Anh Trí.
Người Buôn Gió : Phải chăng Đảng cộng sản Việt Nam đã thất bại trong việc bảo vệ chủ quyền.? Và ngoại giao Câu Tiễn.?
Thứ hai, ngày 30 tháng mười hai năm 2013
Chả là chúng tôi, những người biểu tình phản đối quân Trung Quốc xâm lược. Khi bị bắt vào trại Lộc Hà, bị cơ quan an ninh xét hỏi. Trong quá trình bị xét hỏi kèm với việc giải thích, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền. Các cán bộ an ninh đưa ra một lý lẽ rằng.
'' Giờ chúng ta muốn bảo vệ đất nước, phải giữ ổn định chính trị. Vì sao, vì giữ ổn định chính trị mới phát triển được kinh tế. Có kinh tế mạnh thì chúng ta mới có vũ khí, có phương tiện để bảo vệ chủ quyền...''
Cá nhân tôi đồng ý với lý lẽ của cán bộ an ninh, mặc dù tôi biết lịch sử khi thành lập nhà nước này, kinh tế gần như con số không. Nhưng nhờ ngoại giao được với các cường quốc cộng sản anh em, Việt Nam có được pháo 105 ly, xe tăng, tên lửa ...để chiến đấu. Mặc dù nền kinh tế Việt Nam lúc đó đến cái xe đạp cũng không sản xuất được ra hồn.
Cuộc biểu tình đầu tiên chống quân Trung Quốc xâm lược nổ ra năm 2007, đến năm 2009 tôi bị bắt vì tội in áo Hoàng Sa- Trường Sa- Việt Nam..rồi đến năm 2011, năm 2012 cuộc biểu tình như thế lại nổ ra. Tôi lại bị bắt vì tội biểu tình Hoàng Sa - Trường Sa. Phải nói một điều đôi khi trước lúc bắt người biểu tình, chính quyền đã dùng loa trên xe ô tô công an để thuyết phục rằng hành động biểu tình của chúng tôi là gây rối trật tự công cộng, có đánh giá tinh thần yêu nước, nhưng chuyện bảo vệ chủ quyền nhà nước có đường lối bảo vệ.
Trong ngần ấy năm bức xúc vì chuyện chủ quyền tôi vẫn nghe lập luận quen thuộc và rất có lý của cơ quan an ninh.
- Kinh tế phải mạnh mới bảo vệ chủ quyền, giờ phải khéo léo giữ hòa bình để tranh thủ phát triển kinh tế mạnh lên, có tiền mua tàu, tên lửa, khí tài, nuôi quân đội....giờ Đảng và Nhà Nước đang phải lo lắng như thế, các anh đừng nóng vội làm mất trật tự xã hội, khiến cho tình hình bất ổn hơn.
Giờ nhìn lại đã mấy năm trôi qua, nền kinh tế của Việt Nam phát triển hay là lụi bại.?
Nếu nền kinh tế của chúng ta không phát triển, thậm chí lụi bại, đời sống cán bộ, nhân dân, chiến sĩ khó khăn hơn. Mọi thứ tăng giá nhiều hơn, thu phí nhiều hơn thì rõ ràng nền kinh tế không phát triển mạnh mà đang vào chỗ suy yếu. Phải suy yếu thì nợ công mới đầm đìa, mới phải tái cơ cấu, mới phải bán cổ phần của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Mới phải tìm cách huy động vàng trong dân để làm vốn nhà nước. Hàng loạt doanh nghiệp phá sản, giải thể....
Và nói gì thì nói, thực tế một điều là nền kinh tế chúng ta đi xuống.
Nếu vậy, phải chăng chiến lược phát triển kinh tế để đảm bảo chủ quyền đã thất bại.? Rõ ràng theo lập luận các anh đưa ra, phát triển kinh tế để bảo vệ chủ quyền. Thì mệnh đề phát triển kinh tế đã không thành, vậy mệnh đề bảo vệ chủ quyền suy ra cũng thất bại theo.?
Ngoài một điểm sáng là phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh mới đây tại hội nghị quân chính toàn quân, ông Thanh khẳng định kiên quyết giữ vững chủ quyền biển đảo. Và tàu ngầm Kilo về tới Việt Nam. Tàu ngầm là một chương trình có từ lâu, còn mục tiêu quân đội của ông Thanh lẽ ra phải nhắc thêm trong trách của quân đội rất nặng nề nữa là bảo vệ Đảng, bảo vệ CNXH, sẵn sàng dập tắt biểu tình, bạo động.... Những điểm này sáng nhưng chưa tỏ, vì chẳng mới mẻ gì và cũng chẳng hơn gì so với trước. Và nó cũng chẳng đủ để chứng minh luận thuyết kinh tế phát triển mạnh để bảo vê chủ quyền.
Giá như khi tàu ngầm Kilo về tới Việt Nam, giá cả viễn thông, xăng dầu... không tăng vọt. Giá như cả chính phủ phải nhẫy cẫng lên mừng như bắt được vàng vì ngân sách thu hoàn thành kế hoạch. Giá như người công nhân không phải nhận gạch, nước mắm thay tiền thưởng Tết...
Có lẽ Đảng đã thành công trong việc phát triển kinh tế để bảo vệ chủ quyền.
Nền ngoại giao Câu Tiễn.
Ngoại giao khéo léo là một trong những biện pháp mà ĐCSVN ca ngợi trong việc bảo vệ chủ quyền. Đó là tăng cường hiểu biết hai nước, tăng cường quan hệ toàn diện từ văn hóa, kinh tế, quân sự, chính trị....
Một ông đại sứ ở Trung Quốc hàm tương đương thứ trưởng mà phải nói
"Chính sách nhất quán của Việt Nam là coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Chúng ta không có hai lòng. Thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với Trung Quốc cũng góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới".
Xưa nay chuyện ăn ở một hay hai lòng, chỉ dành cho kẻ đầy tớ, bầy tôi. Lẽ nào ở cấp hàm tương đương thứ trưởng ngoại giao, một ông đại sứ không biết về câu cú, chữ nghĩa lại đi sử dụng từ '' hai lòng'' trong một mối quan hệ tưởng là phải bình đẳng giữa hai nước.? Người ta nói một lòng thờ bố, một lòng thờ chủ, một lòng thờ vua....có ai nói một lòng thờ bạn đâu. Với bạn bè chỉ cần chí tình, chí nghĩa là đủ. Trong quan hệ vợ chồng có sử dụng từ một lòng, hai lòng. Nhưng đó dành cho người vợ, vì vai trò người đàn ông trong lịch sử như vai trò của một ông chủ. Người ta khen vợ ăn ở một lòng, không hai lòng hai mặt với chồng là vậy.
Ở quan hệ ngoại giao hai nước có lịch sử văn hóa truyền thống phong kiến, đều biết rõ về sự một lòng, hai lòng là chỉ quan hệ cấp bậc phân chia thế nào. Vậy ông đại sứ Thơ địa diện cho VN nói câu vậy, thì ông định xếp vai vế Việt Nam với Trung Quốc là gì.?
Một ông Vũ Xuân Hồng, chức danh là Chủ tịch các hội liên hiệp hữu nghĩ Viêt Trung trả lời báo Tuần Vietnamnet rất chi tiết về ơn nghĩa, công lao của Trung Quốc đối với Việt Nam, ông Hồng kể rõ tên từng địa danh, công trình mà Trung Quốc giúp Việt Nam từ đời nảo đời nào.
'' Chúng ta vẫn còn đó bao công trình lớn của Trung Quốc xây dựng trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa: nhà máy thép Thái Nguyên, sợi Nam Định, phân đạm Hà Bắc.. các công ty Trung Quốc vào Việt Nam làm ăn. Biên giới mở cửa để hai nước giao thương buôn bán, hòa bình hữu nghị. Đó là nền tảng lâu dài cho nhân dân cả hai bên. Dứt khoát không nên dấy lên điều gì có thể dẫn đến xung đột. ''
Thế nhưng chủ quyền của đất nước ông đấy, đang có vấn đề gì, ở đâu, quân Trung Quốc đóng chỗ nào, khoanh vùng chỗ nào, bắn ngư dân Việt lúc nào, thời điểm nào . Ông Vũ Xuân Hồng không nhớ, trái lại ông lại mập mờ nói.
'' Biển Đông là một trong những câu chuyện nhạy cảm, phức tạp; nhưng đừng để ảnh hưởng đến đại cục. Chúng ta còn có bao nhiêu lĩnh vực cần cùng nhau phát triển: kinh tế, xã hội, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác phát triển…''
Chủ quyền rõ ràng, sao lại là câu chuyện nhạy cảm, phức tạp. Cách mà ông Hồng nói khiến người ta cảm giác câu chuyện chủ quyền là một câu chuyện có lỗi, vấn đề chủ quyền là vấn đề không hay, không nên nhắc đến làm gì. Tại sao ông không kể rõ chi tiết địa danh, thời điểm của vấn đề biển đảo rành rọt như ông kể tên các công trình Trung Quốc giúp Việt Nam. ?
Lịch sử có nền ngoại giao nín nhịn của Câu Tiễn của nước Việt . Nhưng Câu Tiễn nằm gai, nếm mật, Hàng đêm ngửa cổ nhắc với trời đất mối thù bị mất đất.
Câu Tiễn không nhịn nhục để sắm biệt thự, để mua nhà cho bồ nhí, để mua những món ngon vật lạ trong thiên hạ. Câu Tiễn cũng chẳng vun vén cho con cái nắm những vị trí hái ra tiền. Toàn quân, toàn dân nước Việt của Câu Tiễn ngày đêm cày cấy, tăng gia phát triển kinh tế để nước giàu , quân mạnh. Vua quan nước Việt của Câu Tiễn cùng mặc áo vải gai, cùng dệt vải, cày cấy với dân. Câu Tiễn cũng không gửi con sang Hoa Kỳ với số vốn chuyển theo đề lo chỗ mới làm ăn.
Và đương nhiên chấp nhận nền ngoại giao nhịn nhục để phục quốc, Câu Tiễn ngày ăn cơm rau dưa không quá hai món, sẽ không béo múp ngón tay như Vũ Xuân Hồng..
Người Buôn Gió : Nhưng chim đã gãy cánh.
Thứ hai, ngày 30 tháng mười hai năm 2013
Biển ngây ngô hay biển man rợ
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ.
Sở dĩ tôi định không viết bởi tôi hèn. Tuy rằng trong thâm tâm tôi nếu có dịp sang Mỹ, kiểu gì tôi cũng tìm gặp để chào anh một cái bắt tay. Tôi hèn chẳng phải tôi sợ những người cộng sản đối nghịch với anh, họ làm gì tôi. Tôi hèn vì tôi sợ '' một số người '' những người đấu tranh dân chủ.
Họ sẽ chửi tôi tư cách gì viết về anh hả thằng oắt con Bắc Kỳ. Mày định lăng xê cho bản thân mày à.?
Họ chửi bạn tôi hay thằng em Nguyễn Lân Thắng của tôi như vậy. Chỉ hành động ghé thăm nghĩa trang Biên Hòa, thắp nén hương cho người đã khuất. Nguyễn Lân Thắng bị một số kẻ tự nhận là hậu duệ của quân lực VNCH chửi bới. Họ cho rằng Nguyễn Lân Thắng không đủ tư cách để thắp hương , để bén mảng đến nghĩa trang Biên Hòa nơi những chiến sĩ QLVNCH an nghỉ....Cho nên tôi cũng sợ khi nhắc đến những người như các anh.
Tôi kể sơ qua lý do vậy, chứ tôi có cách thủ rồi. Giờ viết gì tôi nhận tôi hèn, ngu, lưu manh, cơ hội...nhận một lô xích xông sẵn thế, cho một số nhà ''đấu tranh dân chủ '' khỏi lo tôi tư cách có hay không. Có chửi tôi thì chả ăn thua vì tôi tự chửi mình trước rồi.
Không biết trình tự của ba nhạc phẩm trên, nhạc phẩm nào có trước. Những cảm nhận của mình tôi sắp xếp trình tự như ở phần đầu. Nhạc phẩm Chút Quà Cho Quê Hương đắng chát, trần trụi về một sự thật tăm tối thời bấy giờ trong nước, trong nhạc phẩm ấy tình trạng đói kém và thiếu thốn về vật chất được phác họa không chút che đậy màu mè, dăm ba thước vải, chiếc nhẫn yêu thương, cây bút máy, hộp diêm nhóm lửa..thú thực khi nghe bài đó. Tôi cũng ước có thân nhân ở nước ngoài để có quà là cây bút máy hay vài chiếc kẹo để ngậm cho ngọt giữa cuộc đời đầy cay đắng vì đói khát, thèm thuồng.
Rồi đến bài Lời Kinh Đêm thật sự tôi không nghĩ đó là cùng một tác giả. Bởi sự trần trụi cay đắng của Chút Quà Cho Hương lớn quá, khiến tôi không nghĩ nổi một nhạc phẩm đầy chất triết lý về sinh tử, chia ly được ẩn sâu trong ca từ như.
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ
Người buông xuôi về nơi đáy nước
Người có mộng một nấm mồ xanh.
Thật khủng khiếp cho những người vượt biển, người vượt biển khi buông xuôi về nơi đáy nước với ước mơ thân xác mình có một nấm mồ xanh cỏ. Như bao nhiêu người chết bình thường khác trên bờ. Người ta có vô vàn ước mơ, nhưng ước mơ chết có được nấm mồ thì mấy nhà văn, nhà thơ nào tưởng rượng nổi. Phải chăng chính sự trải nghiệm của mình qua cuộc vượt biển đã khiến cho anh thấu được ước mơ của những người chết đuối trên biển Đông như vậy.
Thế rồi đột ngột nhạc phẩm Mời Em Về tuy có dấu ấn chung về nỗi buồn thân phận lưu vong như hai bài trước, nhưng nhạc phầm này ca từ lãng mạn một cách êm đềm đến dịu ngọt. Tôi cám ơn anh , mặc dù anh chưa ra Hà Nội lần nào nhưng nét vẽ của anh về Hà Nội, về một bà mẹ Hà Nội tóc bạc ngồi đâu đó đang tụng lời kinh Phật , tiếng Nam Mô buồn..làm tôi nhớ người mẹ già của tôi vô vàn. Người mẹ già của tôi đã bao lần ngồi đâu đó ở ngồi chùa nào của Hà Nội tụng kinh khấn Phật mong cho tôi thoát được cảnh ngục tù.
Bài hát dịu dàng lắm, này Cổ Ngư chiều đổ lá, trong mưa buồn lưa thưa, này phố phường xưa những chiều mưa phủ.
Bài hát mà lời như định mệnh. Mà cả lời của ba bài hát, có bài nào lời không như định mệnh đâu.? Một định mệnh buồn của thân phận tha hương.
Nhưng chim đã gãy cánh
Nhưng mấy đã ngừng trôi
Để cho tôi còn lại nơi này.
Mong anh nằm yên bình nơi ấy, nếu có dịp mà tôi sang bên đó. Chắc chắn sẽ đến nấm mồ xanh của anh để thắp nép hương cho một trong những người nhạc sĩ Việt Nam, đã viết những nhạc phẩm về thân phận con người sâu sắc nhất.
Mong lời ca của anh sẽ khiến những con chim xa xứ không bao giờ mỏi cánh ước mơ tìm về với quê cha, đất mẹ. Để chao cánh lượn trên bầu trời Hà Nội, Sài Gòn trong một chiều say nắng.
Chia buồn với trung tâm Asia đã mất đi một người MC ưu tú, người MC quan tâm sâu sát đến từng diễn biến của những người đấu tranh trong nước, nhắc tên những người đấu tranh trên sân khấu giữa hàng nghìn khán giả. Để cho những người yêu nước bên ngoài và những người yêu nước bên trong thấy gần gũi với nhau hơn, gắn bó và hiểu biết nhau hơn. Khoảng trống của anh để lại thật lớn trên sân khấu Asia. Hy vọng những MC như Nam Lộc, Thùy Dương cập nhật tình hình trong nước nhiều hơn và cặn kẽ hơn để lấp khoảng trống mà Việt Dzũng bỏ lại, thiết nghĩ đó cũng là cách tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa và đầy lòng trắc ẩn, bao dung đó.
Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013
Đào văn Tùng : Từ Đảng không còn là cá biệt
22/12/2013
Đào văn Tùng (Thiện Tùng)
Việc luật gia Đằng, tiến sĩ Dũng, bác sĩ Diên ly khai (từ) Đảng CSVN (Đảng) nhất thời gây xôn xao dư luận, khen chê lẫn lộn.
Lâu nay việc ra vào Đảng là chuyện bình thường, trước ba ông nầy đã có lắm đảng viên từ Đảng, họ âm thầm ra đi "không kèn không trống", còn ba ông nầy từ Đảng khác thường là "giống trống khua chiên", khiến dư luận xã hội nóng lên, biến việc vốn bình thường ấy thành khác thường.
Theo tôi hiểu, Đảng là một tổ chức, ai muốn vào phải tự giác xin và đợi cho, còn muốn ra chỉ cần báo cho tổ chức biết là đủ lịch sự rồi.
Mỗi người một cách. Ông Đằng, ông Diên từ Đảng "bái tổ" với động thái dứt khoát, vẫy tay chào rồi tự động ra đi không một chút đoái hoài, buộc người ta phải chấp nhận, không còn điều kiện gây khó dễ. Ông Dũng vẫn còn đang công tác trong hệ thống nhà nước, từ Đảng "bái tổ" phải kèm chữ "xin" – mặc dầu là xin hướng dẫn thủ tục.
Thói thường, hễ xin thì phải đợi cho. Đối với người xin ra khỏi Đảng, người ta thường áp dụng 2 biện pháp:
1/ Dùng biện pháp mềm: Người ta dùng lời lẽ êm dịu khuyên đương sự có gì thì nói với nhau, cùng nhau giải quyết, đừng dại dột ly khai chỉ thiệt cho bản thân…
Nếu khuyên ở lại không được thì
2/ Dùng biện pháp cứng: Người ta tổ chức họp chi bộ, khéo léo chọc tức làm cho đương sự cáu tiết sa vào bẫy, thay nhau cố bới lông tìm vết để rồi biểu quyết theo nguyên tắc thiểu đa khai trừ đảng, khiến đương sự ra đi mặt mày lọ lem, để giữ được thể diện cho Đảng.
Để giữ thể diện cho Đảng, người ta bằng mọi cách trét lọ vào mặt những đảng viên muốn ly khai đảng và khai trừ đảng viên hư hỏng trước khi ra tòa – vành móng ngựa và trại giam không phải là chỗ dành cho đảng viên. Vậy thì đảng viên trong sạch muốn từ Đảng mà mặt không bị lọ lem thì phải vừa chào vừa chạy - bôi lọ gián tiếp chưa chắc dính ?
Nhân đây tôi kể sơ về mình: Tuổi nhỏ, có tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng thôi, không đáng tính. Năm 1954, trụ lại miền Nam. Năm 1959, xin vào Đảng Lao động VN. Tính đến nay được 54 năm tuổi đảng. Nhưng không, không nhiều như thế, bởi tôi đã trả thẻ đảng hồi cuối thập niên 1980, vì lẽ tôi yêu nước chớ không yêu CNXH, vả lại tôi xin vào Đảng Lao động chớ không phải xin vào Đảng CSVN.
Sau khi nước nhà thống nhứt (1976), Đảng Lao động VN đổi tên thành Đảng CS, nhận lớp bước Dân chủ của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ do họ đề ra, tiến hành cải tạo XHCN mọi mặt, gây nhiều bất an trong xã hội.
Ngay từ đầu năm 1980, tôi là một trong những người bất đồng chính kiến với Đảng trong đường lối cải tạo XHCN. Khi thấy không thể nào cưỡng nổi ý định của Đảng, dầu đang là Phó trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy tỉnh Tiền Giang, được lãnh đạo trọng dụng, tôi đã tự ý từ nhiệm, sau đó trả thẻ đảng. Tiếp theo tôi, bốn ông Nguyễn Văn Thiệu (Sáu Trung), nguyên Bí thư huyện ủy huyện Bình Đại, giảng viên trường Đảng khu Trung Nam Bộ, Thành ủy viên TP Mỹ Tho; ông Nguyễn Hữu Chí, nguyên Phó trưởng Ban Tuyển sinh tỉnh Tiền Giang; ông Huỳnh Chân, nguyên chuyên viên Ban tổ chức Tỉnh ủy tỉnh Tiền Giang; ông Ba Thanh, nguyên chuyên viên Công đoàn tỉnh Tiền Giang cũng trả thẻ đảng như tôi, bất chấp sự can ngăn của Tỉnh ủy.
Thời điểm lúc bấy giờ không dễ dàng như hiện nay, những ai trả thẻ đảng bị xem như "những phần tử xét lại chống đảng"– phản đảng, bị ghi vào sổ đen, chịu phân biệt đối xử khắc nghiệt.
Do người ta quan trọng quá vấn đề, xử lý sự việc căng như thế, riêng tôi trước sau vẫn nghĩ đơn giản: Tôi theo Đảng – đúng hơn là cùng Đảng và nhân dân nói chung làm cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ. Khi chiếm được quyền, Đảng bội ước, không đi tiếp về đích Dân chủ mà rẽ sang con đường XHCN với thể chế độc tài toàn trị thì tôi chia tay với Đảng tại đây. Tôi không phản bội Đảng, nếu có chăng thì ngược lại. Tôi tự thấy mình có lỗi với dân vì bất lực không cùng đưa cuộc cách mạng núi xương sông máu về đến đích Dân chủ như đã hứa. Khi cuộc chiến đã tàn, là một thương binh mất sức 71%, tôi biết làm gì hơn, chỉ tự an ủi : dầu sao mình cũng góp phần xương máu thực hiện được một vế (Dân tộc) của cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ - tức là góp phần loại được ngoại xâm.
Theo quan sát của tôi, từ Đảng không còn là cá biệt, đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra. Tùy nhận thức và tình cảm của từng người, từ Đảng có nhiều cách, độ "đậm đặc" không thể giống nhau:
- Ra đi tuyên bố ("bái tổ") như trường hợp ông Lê Hiếu Đằng…
- Trả thẻ Đảng cho tổ chức rồi thầm lặng ra đi như tôi chẳng hạn.
- Xin ra khỏi Đảng như trường hợp Phạm Chí Dũng chẳng hạn.
- Cố tình vi phạm điều lệ - bỏ sinh hoạt, được xem như tự xóa tên.
- Viện lý này cớ nọ xin khỏi sinh hoạt, trở thành hư vị, giữ sổ hưu.
Điều quan trọng mà tôi nhận thấy, gần như hầu hết những người từ Đảng là họ không chấp nhận thể chế độc tài toàn trị của Đảng, họ "nặng nợ" với nước với dân, muốn Đảng thực hiện thể chế Dân chủ Đa nguyên về mọi mặt, nhưng Đảng luôn từ chối, khiến họ phải ly khai (từ Đảng).
Ông Chín Đức, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Tiền Giang vừa nói với tôi:
- Hồi đó tao bảo mầy đừng trả thẻ Đảng mầy không nghe .
Tôi nói lại:
- Nếu chưa trả nay tôi cũng trả như anh Đằng… Anh ở lại làm được gì cho dân cho nước nói xem nào, hay chỉ nán lại để đủ 60 năm tuổi Đảng kiếm thêm chút cháo…? .
Ông Đức không rầy tôi, chỉ cười và rủ uống trà.
Ông Đằng… trả thẻ Đảng, cô Uyên… trả thẻ Đoàn hay ai đó trả thẻ Hội âu cũng là chuyện thường tình - thích thì ở, không thích thì ra đi. Điều quan trọng đối với người ở lại hay ra đi, cần phải xác định trách nhiệm của mình đối với nước với dân .
Người đi, kẻ ở, ai cũng giành phần phải về mình, về phe mình âu cũng là thói thường. Chỉ cần lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm "kính chiếu yêu" thì sẽ phân biệt đâu đúng đâu sai.
20/12/2013
Đ.V.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Phạm Chí Dũng: Đảng Cộng sản VN đang dần phải thừa nhận xã hội dân sự
Trước đây trong bài trả lời phỏng vấn mang tựa đề "Hậu hội đồng nhân quyền: Dân chủ Việt Nam sẽ ra sao?" trên RFI ngày 02/12/2013, nhà bình luận Phạm Chí Dũng có nhận định là đã "bắt" được tín hiệu về việc Nhà nước Việt Nam đang dần phải thừa nhận mô hình xã hội dân sự. Hôm nay chúng tôi xin phép trao đổi thêm về vấn đề này với ông Phạm Chí Dũng.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Trong lần trả lời phỏng vấn trước đây anh có nhận xét là có những dấu hiệu cho thấy Nhà nước Việt Nam tỏ ra cởi mở hơn về vấn đề xã hội dân sự (XHDS). Có vẻ tín hiệu đó đang rõ hơn trên mặt báo Đảng trong những ngày gần đây?
|
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Chắc chắn là đã rõ hơn, chẳng hạn bài "Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng" đăng trên báo Quân đội Nhân dân ngày 08/12/2013. Bởi đây là lần đầu tiên xuất hiện một bài viết trên báo Đảng thừa nhận khái niệm "tổ chức xã hội dân sự", và cụm từ « Xã hội dân sự » cũng không còn bị đặt trong ngoặc kép như cách diễn đạt đầy định hướng "thù địch" như trước đây.
Chúng ta có thể nhận ra là không phải ngẫu nhiên mà trước bài "Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng", báo Quân đội Nhân dân vào ngày 24/11/2013 cũng đã có bài "Cần hiểu đúng về Xã hội dân sự", với khái niệm nhạy cảm này được đặt trong ngoặc kép. Bài báo này nêu ra bốn khái niệm về XHDS, nhưng đáng chú ý là nhắc lại một khái niệm của Liên minh vì sự tham gia của công dân (CIVICUS) 2005: "Xã hội dân sự là Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung".
Cần chú ý là khái niệm này được nêu ra trong một bản báo cáo khảo sát về XHDS mà Viện Những vấn đề Phát triển của Tiến sĩ Nguyễn Quang A là một thành phần tham gia nghiên cứu. Vào khoảng năm 2010, viện này đã bị Chính phủ ra văn bản đóng cửa. Ông Nguyễn Quang A cũng là một nhân vật được coi là "rất nhạy cảm" đối với chân đứng của chế độ và hiện nay đang phụ trách chính trang mạng Diễn đàn Xã hội Dân sự cũng nhạy cảm không kém.
Dù chỉ mới phát tác đôi chút, nhưng sự thay đổi tâm tính của báo Đảng về cách nhìn và có thể cả cách hành xử đối với XHDS khiến giới quan sát không thể không liên tưởng đến bối cảnh ra đời của các bài báo này. Bài "Cần hiểu đúng về Xã hội dân sự" trên báo Quân đội Nhân dân xuất hiện gần hai tuần sau sự kiện Nhà nước Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Đáng chú ý là bài này nêu ra câu hỏi: "Chúng ta phải làm gì để người dân hiểu đúng về "xã hội dân sự" và phát huy những mặt tích cực của nó?". Tuy vẫn đòi hỏi "vạch trần bản chất sự cơ hội, lợi dụng hoặc mù quáng ảo tưởng về cái gọi là xã hội dân sự", nhưng dù sao bài viết này cũng đề nghị một số giải pháp như cần có các hội thảo riêng về cái gọi là "xã hội dân sự" làm rõ lịch sử khái niệm, cái được, cái mất, cái tốt, cái xấu của nó.
Còn bài "Không để các tổ chức xã hội dân sự bị lợi dụng" cũng của báo Quân đội Nhân dân lại chỉ cách thời điểm Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry viếng thăm Việt Nam có một tuần. Bài này "tiến bộ" hơn bài trước đôi chút với sự thừa nhận "Sự ra đời, phát triển của XHDS là một đòi hỏi khách quan đối với mọi xã hội. Chúng ta không phủ nhận những đóng góp của tổ chức XHDS đối với sự phát triển của xã hội".
Bên cạnh đó là : "Cùng với thừa nhận sự tồn tại khách quan của các tổ chức XHDS, quan tâm tạo điều kiện để các tổ chức XHDS hoạt động đúng hướng, phục vụ lợi ích của đất nước và dân tộc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, chúng ta cần nhận thức rõ và khắc phục những hạn chế, thách thức của nó đối với sự phát triển xã hội ". Cũng như : "Nhận thức đúng đắn về XHDS là cơ sở để chúng ta đấu tranh chống mọi tư tưởng, quan điểm, hành vi lợi dụng XHDS chống phá Việt Nam; để các tổ chức XHDS phát triển lành mạnh, phát huy tốt vai trò, tác dụng của mình đối với các hội viên, thành viên và toàn xã hội".
Rõ ràng đã có một sự chuyển giọng trên cùng một tờ báo, hoặc trong cùng một khẩu ngữ của thể chế, trong bối cảnh rất thách thức về đối ngoại chính trị.
RFI : Còn nhớ chỉ mới năm ngoái xã hội dân sự còn bị báo Đảng xem là "thủ đoạn của diễn biến hòa bình"?
Nếu so sánh, có thể thấy chất giọng của báo Đảng cách đây một năm là khắc nghiệt hơn nhiều. Một trong những minh chứng đặc trưng cho tâm thế đó là một bài viết trên báo Nhân Dân điện tử ngày 31/08/2012 với tiêu đề "Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình".
Khi đó, bài báo Nhân Dân nhận định: "Nếu XHDS mạnh, thì sẽ dẫn tới vô chính phủ, bất ổn về xã hội và chế độ sẽ sụp đổ. Ðây chính là lý do để các thế lực thù địch quan tâm nghiên cứu, vận dụng, nhằm lợi dụng vai trò của XHDS trong hoạt động lật đổ một chế độ như họ đã thực hiện tại một số nước trong thời gian qua".
Còn vài năm trước, giới tuyên giáo Đảng vẫn duy trì cách nhìn một chiều về XHDS, cho rằng: một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của XHDS trong các cuộc "cách mạng màu" lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) tại Ðông Âu trước đây.
Ở Ðông Âu thời trước, có những "tổ chức chính trị đối lập" hình thành, phát triển và hoạt động với danh nghĩa là "tổ chức XHDS", như Công đoàn Ðoàn kết ở Ba Lan, Hội Văn hóa Ucraina ở Liên Xô trong những năm 80 của thế kỷ XX… Tương tự, tại Tiệp Khắc, với sự hỗ trợ của bên ngoài, các đối tượng chống đối chế độ đã thành lập Phong trào Hiến chương 77 làm hạt nhân. Các cuộc "cách mạng đường phố" tại các nước vùng Trung Ðông - Bắc Phi thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ (NGO), trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ chế độ.
Giới tuyên giáo Đảng cũng gìn giữ đến mức sắt son tinh thần bảo thủ khi cho rằng các nước, các tổ chức quốc tế, các NGO nước ngoài đang tìm mọi cách để hình thành, phát triển XHDS theo tiêu chí phương Tây ở Việt Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp "bất bạo động", "phi vũ trang". Hoạt động này nằm trong ý đồ thực hiện "tiến trình dân chủ ở Việt Nam" với mục đích lợi dụng XHDS để gây mất ổn định chính trị, tiến tới thay đổi chế độ như xảy ra tại các nước Ðông Âu, thuộc Liên bang Xô Viết trước đây và Trung Ðông - Bắc Phi thời gian qua.
Cuối cùng là thái độ chụp mũ xảy ra vào năm 2012 khi một số báo Đảng cho rằng: một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai…
Cũng theo các báo Đảng : « Nếu thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ xã hội chủ nghĩa thực tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Ðây là phương thức đấu tranh công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp dân chủ, tư sản ».
Những bài báo có cách nhìn rất phiến diện về XHDS như vậy xuất hiện trong bối cảnh tình trạng nhân quyền ở Việt Nam nóng hổi, trong những cáo buộc của các tổ chức nhân quyền và một số nhà nước tiến bộ trên thế giới. Đây cũng là thời điểm mà làn sóng bắt bớ những người bất đồng chính kiến dâng cao và cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ vào cuối năm 2012 đã bị phía Hoa Kỳ hủy bỏ.
RFI : Hai bài báo gần đây của tờ Quân đội Nhân dân mà anh vừa nêu ở trên có thể cho thấy sự đổi khác nào trong tư duy của giới lãnh đạo Việt Nam về XHDS?
Giới quan sát chính trị ở Việt Nam và quốc tế có lẽ đã hiểu rất rõ rằng những thay đổi về đường lối và nhận thức của đảng cầm quyền thường được biểu hiện qua hệ thống truyền thông của Đảng, đặc biệt qua những cơ quan ngôn luận như báo Nhân Dân và Quân đội Nhân dân. Trên hai tờ báo này luôn có các mục "Bình luận - phê phán" và "Phòng, chống diễn biến hòa bình", thường tập trung chỉ trích, công kích "các luận điệu sai trái và thù địch" đối với hệ thống truyền thông quốc tế như đài VOA, RFA, BBC, RFI… và một số trang web, blog của giới truyền thông xã hội.
Nhiều năm qua và gần nhất là từ đầu năm 2013 đến nay, có thể thấy các sự kiện liên quan đến nhóm "Kiến nghị 72", vụ tuyệt thực của hai tù nhân lương tâm Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, đề xuất thành lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng hay hoạt động của Mạng lưới blogger Việt Nam đều hiện diện như một phần tất yếu trên mặt báo Đảng.
Tình hình đó cho thấy Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, cơ quan tuyên giáo trung ương đã thấm thía và đặc biệt lo ngại về các diễn biến bất đồng tư tưởng. Tất nhiên những người theo đường lối "kiên định xã hội chủ nghĩa" không muốn bỏ qua những phản ứng tư tưởng nổi bật và có sức lan tỏa lớn ngoài xã hội.
XHDS cũng là một trong những tiêu điểm của công tác "phản tuyên truyền" của Ban Tuyên giáo Trung ương và các báo Đảng. Nhưng vào lần này, hiển nhiên đang có một chuyển động thầm kín và có chút tự ti trong lòng họ. Họ đang chuyển từ thái độ phủ nhận XHDS một cách cực đoan sang cách nhìn bắt buộc phải chấp nhận XHDS, như một thực thể khách quan của xã hội trong xu hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên sự chuyển biến này không thể hy vọng là nhanh chóng, mà sẽ rất chậm chạp.
RFI : Theo anh từ những nguyên do nào mà lại có sự đổi thay về nhìn nhận XHDS trong giới lãnh đạo Việt Nam?
Cần nhắc lại, XHDS là một quy phạm đã được phái đoàn thường trực của Nhà nước Việt Nam cam kết, nằm trong 14 điều cam kết của Việt Nam trước chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 8/2013. XHDS cũng là một yêu cầu mà phía Hoa Kỳ nêu ra như một trong những ưu tiên đối với lộ trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Bắt đầu từ cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai nguyên thủ quốc gia Việt - Mỹ vào tháng 7/2013 và sau đó là một số chuyến ngoại giao con thoi, chính thức lẫn không chính thức, giữa hai quốc gia này.
Những cuộc gặp gỡ mang tính thúc đẩy như thế lại lồng trong bối cảnh Nhà nước Việt Nam đang rốt ráo vận động cho một vị trí trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP. Có lẽ cũng cần nhắc lại là nếu vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc chỉ mang tính danh nghĩa mà không dẫn dắt trực tiếp đến một nguồn lợi nào về kinh tế, thì TPP được coi là một trong những chiếc phao cứu sinh đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế Việt Nam lại đang lâm vào tình trạng quá quẫn bách, quẫn bách đến nỗi cạn kiệt về nội lực mà chỉ có thể trông mong vào những nguồn ngoại viện chủ yếu từ Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản, và có thể từ cả "bạn vàng" Trung Quốc.
Từ khung cảnh hòa đồng lẫn hỗn mang về kinh tế và chính trị như thế, chúng ta có thể thấy tiến trình hình thành XHDS ở Việt Nam là một xu thế mang tính tất yếu. Xu thế này dựa vào chính nhu cầu của nhiều tầng lớp người dân Việt Nam về ít nhất các quyền dân sinh, tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do tôn giáo và những quyền khác như biểu tình, lập hội, trưng cầu dân ý. Dù rằng tất cả những quyền này đã được nêu ra trong bản Hiến pháp năm 1992 nhưng sau hơn hai chục năm, đến bản Hiến pháp mới 2013 vẫn không được luật hóa.
Xu thế tất yếu về XHDS ở Việt Nam cũng được biểu đạt từ 11 cuộc biểu tình chống Trung Quốc can thiệp vào khu vực Biển Đông trong năm 2011, đến hàng loạt kiến nghị của nhóm "Kiến nghị 72" trong năm 2013, cho đến sự hình thành một số tổ chức dân sự trong nước, mà thực chất là tổ chức phi chính phủ. Chẳng hạn như Mạng lưới blogger Việt Nam, Phong trào Con đường Việt Nam, Ủy ban Công lý Hòa bình của giới Công giáo, và gần đây là nhóm Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam và Hội Bầu bí Tương thân… Hiện nay có ít nhất 11-12 nhóm dân sự lớn nhỏ đã và đang hình thành ở Việt Nam.
Xu thế hình thành các tổ chức dân sự cho thấy dù muốn hay không, Nhà nước Việt Nam vẫn phải dần chấp nhận sự tồn tại của những tổ chức này và có thể còn nhiều tổ chức dân sự khác, miễn là những hoạt động dân sự đó không "nhằm ý đồ chính trị hoặc lật đổ chính quyền".
Đó cũng là lý do vì sao gần đây trong nội bộ Đảng dường như đã bắt đầu xuất hiện một luồng quan điểm thừa nhận "XHDS là một vấn đề mới ở Việt Nam, đang thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều trí thức, công chức và nhân dân", và "Về bản chất xã hội dân sự có nhiều đặc điểm mang tính tích cực (hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý; vì mục tiêu rất tích cực) cần được nghiên cứu, làm rõ và vận dụng phù hợp vào điều kiện thực tiễn nước ta".
RFI : Nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn để hình thành một XHDS đúng nghĩa ở Việt nam. Theo anh kịch bản nào có thể xảy ra cho XHDS trong những năm tới?
Cho dù Đảng có thể "chủ động nghiên cứu và vận dụng XHDS", tôi vẫn có cảm giác như sự thay đổi về nhận thức và hành vi đối xử của Đảng đối với XHDS hiện thời và trong ít nhất một năm tới không xuất phát từ lòng thành tâm chính trị như một tố chất đã được chiết xuất ở Miến Điện, mà chủ yếu vẫn mang tính đối phó, và chủ yếu là đối phó với trào lưu đối ngoại, trong thế chẳng đặng đừng.
Tôi cũng có cảm giác là đối sách của Đảng đối với XHDS đang có nhiều nét tương đồng với giai đoạn năm 2006 – 2009. Đó là khoảng thời gian mà Nhà nước Việt Nam được hứa hẹn và sau đó được gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới, được dỡ bỏ khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo và nhân quyền của Quốc hội Hoa Kỳ. Khi đó, một số cuộc hội thảo về XHDS đã được Nhà nước tổ chức, nhưng chủ yếu bao gồm thành phần giới chức Đảng và các cơ quan nghiên cứu và quan chức của chính quyền, chứ không được nổi bật bởi thành phần trí thức phản biện độc lập.
Trong vài ba năm đó, những cuộc hội hảo, tọa đàm đã chỉ bàn luận chủ yếu về vấn đề học thuật của XHDS như XHDS là gì, kinh nghiệm về XHDS ở các quốc gia phát triển trên thế giới, một số đặc điểm của XHDS ở Việt Nam, nhưng lại nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức hội đoàn nhà nước chứ không phải hội đoàn tư nhân và càng không làm rõ vai trò của các hội đoàn thiện nguyện trong các tôn giáo. Nhưng câu hỏi "Làm thế nào để có XHDS?" vẫn luôn là một bế tắc đầy cố tình. Cuối cùng, các cuộc hội thảo này đã kết thúc mà không có bất kỳ một lộ trình cụ thể nào cho việc triển khai XHDS ở Việt Nam, dù một số trí thức phản biện độc lập đã nêu ra không ít kiến nghị.
Rất có thể vào lần này, Nhà nước Việt Nam cũng muốn thực hiện đối sách mang tính đối phó như thế, như một cách trì hoãn thời gian theo phương châm "vừa mềm dẻo vừa đấu tranh". Còn nếu sau hai đến ba năm nữa mà nền kinh tế Việt Nam trở lại thời được coi là hoàng kim như năm 2007 và thế đứng của thể chế cũng đỡ mong manh hơn hiện thời, hoàn toàn không loại trừ vấn đề XHDS sẽ không còn được xem là một nhu cầu, yêu cầu của dân chúng.
Thậm chí sẽ không còn được nêu ra trong bất cứ cuộc hội thảo nào, còn những tổ chức dân sự mang tính hành động cao nhất sẽ có thể bị sách nhiễu, và lãnh đạo của họ sẽ có cơ hội trở thành tù nhân lương tâm. Cũng cần nói thêm là cho đến nay, ở nhiều tỉnh thành, cách nhìn đối với XHDS vẫn còn rất hà khắc, thậm chí cụm từ này bị coi là một điều cấm kỵ và rất gần gũi với nghĩa "phản động".
Thế nhưng tôi vẫn hy vọng tình hình những năm tới sẽ khác hơn là giai đoạn 2006-2009. Cơ sở của sự khác biệt, có thể xem là sự khác biệt cơ bản như thế, là tất cả các yếu tố về hạ tầng kinh tế, mức độ bất bình đẳng xã hội gây ra bởi các nhóm lợi ích và thân hữu, niềm tin dân chúng, phản ứng xã hội. Và cả điều được coi là "đoàn kết" trong nội bộ Đảng hiện thời đã chênh biệt rất nhiều so với thời gian trước đây - một sự chênh lệch đủ lớn để không làm cho bất kỳ dĩ vãng nào có thể tái hiện. Nói cách khác, Nhà nước Việt Nam đã quá thụt lùi trong hoạt động điều hành quản lý kinh tế - xã hội, ít nhất tính từ thời mở cửa kinh tế những 90 của thế kỷ trước, và hậu quả của sự thụt lùi này là rất khó có thể cứu vãn.
Một khi quá khứ khó hoặc không thể lặp lại, và theo phân tích riêng của tôi thì sẽ hầu như không còn cơ hội để lặp lại, những người cầm quyền ở Việt Nam chỉ có thể chọn một trong hai con đường: hoặc đi ngược với quy luật, xu thế và các trào lưu về hội nhập quốc tế và do đó sẽ mang đến cho họ những nguy hiểm khôn lường về thế tồn vong chính trị và cả tài sản cùng mối an nguy cá nhân. Hoặc phải bắt nhập những vận động quốc tế một cách thành tâm hơn, sẵn lòng thừa nhận và chấp nhận mô hình XHDS hơn. Như những gì mà Tổng thống Thein Sein và các thuộc cấp của ông đã và đang tương đối thành công, trong mối quan hệ với người dân và đảng Liên đoàn Quốc gia Vì dân chủ của bà Aung San Suu Kyi ở Miến Điện.
Một chính thể có bản lĩnh là chế độ không e ngại, không e sợ sự tồn tại và phát triển của XHDS. Nếu vận dụng được những mặt mạnh của XHDS, chế độ đó chắc chắn sẽ được lòng dân hơn và tuổi thọ của nó cũng sẽ kéo dài hơn. Còn nếu vẫn khăng khăng khống chế và đàn áp XHDS thì sự sống của chế độ sẽ chỉ còn tính bằng năm tháng.
RFI : Chúng tôi rất cám ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã nhận lời trao đổi với RFI Việt ngữ trong chương trình hôm nay.