Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

Nguyễn Minh Cần : Bàn chuyện rời bỏ đảng

Nguồn danlambao

Nguyễn Minh Cần (Danlambao) - Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên CS còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào? Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên... những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bổng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho.

Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây:

Điều thứ nhất. Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi khinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong ĐCS hay những người đã từng bị ĐCS đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng, quả là ĐCSVN "giết người như ngóe". Ai chống Đảng – Đảng diệt! Ai chưa chống Đảng, mà Đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống Đảng – Đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với Đảng – nhất là người thuộc các đảng yêu nước không cộng sản – thì Đảng cho "đi mò tôm", tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị Đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của đảng – chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết - Đảng "thịt". Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của Đảng – Đảng "thịt" ngay, để giữ bí mật của Đảng. Người cảm tình với Đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của Đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận - Đảng cũng "thịt". Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, Đảng nghi là gián điệp - Đảng "thủ tiêu". Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên… của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng người "đi toong"! Chính cái đầu óc "coi mạng người như ngóe" đó, mà Đảng nhất quyết bác bỏ "nhân tính", chỉ thừa nhận "giai cấp tính", mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là "thú tính". Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là "địa chủ" trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm… đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? "Giai cấp tính" ư? Rõ ràng là "thú tính"! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn phát-xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay?

Thế nhưng, hễ ai - các nhà trí thức, các đảng viên của Đảng - dám đề cao "nhân tính" thì Đảng liền phê cho là "mất lập trường", là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có "đảng tính". Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không cộng sản, như Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng Đại Việt, v.v... những năm sau khi ĐCS cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với Đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với Đảng, nhưng khác về đường lối, như những người trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người CS ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha - phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người trotskistes là "một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát-xít Nhật và chủ nghĩa phát-xít quốc tế", "đàn chó trotskistes", "những kẻ đầu trâu mặt ngựa", "những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác", "kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ", "bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất", v.v… Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Trung ương (TƯ) Đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v... (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban "chỉ điểm") và vụ giết oan mấy chục đảng viên CS người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật giáo...) sau khi ĐCS tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước VNDCCH do Chủ tịch Trường Chinh ký ngày 20.6.1961), còn sau 30 tháng Tư năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Ủy ban Quân quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu phát-xít, mệnh danh là "trại cải tạo". Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam - Đà Nẵng hồi 1975... Chính vì phủ nhận "nhân tính", nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân "vùng địch".

Đặc biệt cần nói đến vụ cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho Đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của Đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của Đảng từng chiến đấu cho Đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của ĐCS đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố "dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản". 

Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc - Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói:"Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa". Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam! 

Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu ĐCS thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ - mấy ủy viên TƯ Đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu CS, thì họ bị quy là "phần tử xét lại chống Đảng", bị vu khống "làm gián điệp cho nước ngoài" và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù. 

Chính việc ĐCSVN phủ nhận "nhân tính" đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi Đảng cũng coi thường tính mạng con người: cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên: "Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay." 

Điều thứ hai. Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của Đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với "bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất" của Đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu "người cày có ruộng". Khi cần lôi kéo nông dân theo Đảng làm cách mạng, ĐCS tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, ĐCS vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì ĐCS đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là ĐCS, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người "làm công ăn điểm" để rồi "Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân", v.v... Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi ĐCS đã nắm quyền trên cả nước, Đảng liền thảo Hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là "sở hữu toàn dân"! Tuyên bổ đất đai là "sở hữu toàn dân", có nghĩa là ĐCS đã "quốc hữu hóa" đất đai, hay nói chính xác hơn "đảng hữu hóa" ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, ĐCS thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối "quốc hữu hóa", nói đúng hơn là "đảng hữu hóa" này chỉ có lợi cho đám quan lại CS cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu "dân oan" khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi.

Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài "giải phóng miền Nam", để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như tổng thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu, v.v. và v.v… Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được Sự Thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng!

Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là "Nhà nước công nông", "nông" thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn "công" thì đồng lương mà "Nhà nước công nông" trả cho công nhân, viên chức là "đồng lương bóc lột", "đồng lương chết đói", thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là "chuyên chính vô sản", thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái "chuyên chính" đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố... khoác cái áo "vô sản lưu manh" (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm Chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt "chuyên chính" mà đè đầu cưỡi cổ "thằng dân". Nào là "dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân" - điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong "Chương trình Việt Minh": xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,... nhưng khi ĐCS nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về "nghệ thuật" lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho ĐCS. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban tuyên huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: "Tố Hữu, nguyên Trưởng ban tuyên huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây." 

Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức "kháng chiến" cuội, "phục quốc" cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm.

Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: ông có phải là cộng sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: không. Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: "Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa mác-xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi". Trên báo Le pays ông cũng đã nói: "Những lý thuyết mác-xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được". Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25.6.1946, trả lời đảng viên Xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: "Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés", tạm dịch: "(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt". Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937-38 chửi bới thâm tệ những người trotskistes. 

Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm Hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các Công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn, v.v. và v.v... càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho Đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của Tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được?

Điều thứ ba. ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị Đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với ĐCS hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi là гегемония пролетариата, tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của ĐCS (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v..., trong tất cảcác đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của Đảng… đều phải do các đảng viên CS nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v... nhưng đảng viên CS hay đảng đoàn CS những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ "làm vì". Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối Đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì ĐCS chủ trương phải "cải tạo" họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên Đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách "chỉnh huấn", rập khuôn theo bài bản "chỉnh phong" của Mao Trạch Đông. Trong "chỉnh huấn", buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là "đối tượng của cách mạng" như địa chủ, tư sản… thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là ĐCS, và anh ta sẽ được Đảng sử dụng. Tuy vậy, Đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với Đảng thì Đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được Đảng sử dụng, nhưng bao giờ Đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là "chủ nghĩa thành phần". Cái "chủ nghĩa" quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái "chủ nghĩa" này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái "chủ nghĩa" này. 

Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng Đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì Đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án "Nhân Văn-Giai Phẩm" hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh "Nhân Văn-Giai Phẩm" là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc. 

Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa ĐCS đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của Đất nước làm cho nó càng thêm suy bại.

Mặc dù ĐCS đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLX dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP LX 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ Đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.

Cũng nên thấy rằng một khi ĐCS cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị CS đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị CS. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào ĐCS, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: "Bỏ điều 4 HP là tự sát!". Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLX đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLX tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ CS họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29.1.2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ chức TƯ triệu tập ngày 27.1.2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một "sáng kiến tân kỳ", chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ Đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại hội toàn quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi.

Điều thứ tư. Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước. 

ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái "công" đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là Đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là ĐCS) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là "chính phủ bù nhìn" cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của ĐCS đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, Chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh niên Tiền tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội… Đại diện của Chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (ĐCS) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của ĐCS là: ĐCS phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền. 

ĐCS thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu ĐCS có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên hiệp Pháp (theo Hiệp định sơ bộ - 6.3.1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái "công" đó cũng chưa hẳn là công thật. ĐCS còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc - Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: "Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ". ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước Dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của Dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái "công" này không phải là công mà chính là tội, tội ác.

Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn "Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La", chửi Liên Xô là "xét lại hiện đại", rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia; Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo LX, tuyên bố coi LX là Tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi LX là "xét lại hiện đại") cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với LX. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, ĐCS lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô (3-4.9.1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu "vòng kim cô" "mười hai chữ vàng" của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên "thái thú" nhượng đất, nhượng biển cho TQ; mặc cho Trung Cộng làm mưa là gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo... Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của Tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang chiếm cứ ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại Đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của Đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam.

Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cấm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt.

Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc - Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, Đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời "đổi mới" có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà Đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa", cho nên dù có nhưng tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sụ tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v... ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ "hốt, hốt hết", nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã "chìm xuồng", mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù.

Dưới chế độ toàn trị của ĐCS, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó ĐCS lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: "Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm… lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?" Đấy, kết quả nhãn tiền của "đạo đức cộng sản" và việc "xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa" của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó. 

Điểm thứ năm. ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn Đất nước và Dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội Đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi "phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin". Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên "mãi mãi cái loa rè", "già rồi đâm lú". Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại "hai phe, bốn mâu thuẫn", cái công thức từ đời xửa đời xưa CS dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong Đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước "hai ông anh", cứ LX, TQ làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên ĐCS mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là "đỉnh cao của trí tuệ loài người". Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên "đổi mới, nhưng không được đổi mầu". Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng!

Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì Tổ quốc và Dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài… Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: có nên tiếp tục ở trong cái ĐCS này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với Dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị Dân tộc và Đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà. 

Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể Dân tộc, cơ thể Đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì Dân tộc và Đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng ĐCS từng rêu rao và hứa hẹn?

Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội Đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: "Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!" Đại hội Đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, "vô ra vẫn thằng cha lúc nãy" thôi. 

Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. "Vòng kim cô" trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác... đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do. 

2.2015


Hà Sĩ Phu : Câu đối Tết Ất Mùi 2015

Nguồn boxitvn

12/02/2015


clip_image002

Phần I

Ngựa qua Dê tới

clip_image004

Câu đối số 1

- Hết khoe  một thời, NGỌ ngoạy lắm cũng ra vành móngNGỰA!

- Còn xuất DƯƠNG mấy độ, MÙI mẽ chi mà vểnh sợi râu ?

------------------------------------------

(*) MÃ = cái mã bên ngoài = Mã Khắc Tư

Mấy lời thưa trước: Ngày Tết là dịp cùng nhau nhìn lại một năm. Câu đối xin ghi lại một vài ấn tượng khó quên trong năm Giáp Ngọ vừa qua. Ấn tượng thì nhiều nhưng chỉ bày ra hầu bà con đúng 16 câu, bởi con số 16 tự nó cũng là một ấn tượng thật khó quên đối với người dân nước Việt hôm nay. Xin cảm ơn các tư liệu đã bày sẵn ra ngồn ngộn trên các trang mạng, kẻ vụng dại này chỉ lượm ra vài nét để mua vui lúc trà dư tửu hậu, nếu được bà con thuận tay xướng họa vài câu đáp lại thì càng vui lắm vậy.

Câu đối số 2: Ngoại địch không nguy bằng nội gián

- Kẻ thù mới đừng quên:  Viện dẫu tái sinh, triệu lính ngoại xâm không thể dọa!

- Bài học xưa phải nhớ: DƯƠNG Vương(*) dù quyết tử, một tênnội gián cũng là nguy!

(Dương Vương tức An Dương Vương 安陽王, chữ Dương陽 đồng âm với chữ Dương羊 là Dê, câu đối vẫn thường dùng chữ đồng âm dị nghĩa, lấy đó làm trò chơi chữ thú vị).

Câu đối số 3:

- Giáp Ngọ sắp qua, vài chú Ngựa non còn háu đá!

- Ất Mùi đang tới, mấy cụ  già vẫn hám chơi!

clip_image006Câu đối số 4:

- Trâu bò húc Trâu bò, đang hăng máu sợ chi lòi… ruột?

- Đồng chí sợ Đồng chí, đã say quyền ắt phải nhẫn… tâm!

(*)

(*) "Đồng chí sợ đồng chí": Lấy "điển tích" từ câu "cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình?" của ông Lê Hiếu Đằng.

Ngẫu hứng Bình và Chuột

(Câu đối mô tả bức tranh gây ấn tượng nhất trong năm)

clip_image008Câu đối số 5:

- Bá vai Bình, Chuột cũng hữu duyên: mắt trắng, bụng đen, râu vểnh vểnh!

- Sờ gáy ChuộtBình như vô sản: sao vàng, áo đỏ, miệng loe loe!

Câu đối số 6Bình-Chuột vỗ vai nhau:

- Thẻ ĐỎ dẫu chia đôi, óc bác tim tôi, tôi chịu bác!

- Tim ĐEN dù sẻ nửa, mưu tôi mẹo bác, bác nhường tôi!

**************

Phần II

Mấy nét Văn hóa năm Con Ngựa

clip_image010

Câu đối số 7: Niềm tự hào mang tên Việt Nam:

Chống trộm cướp gian manh, thế giới quen tay dùng chữ Việt!!!

Xây thiên đường cộng sản, nhân quần trố mắt chịu ngườiNam!!! (Sướng thiệt đấy đồng bào ơi!)

Một ví dụ:

Poster cảnh cáo người Việt hãy ngưng trộm cắp tại Nhật. (Hình: Internet) người Việt dẫn đầu về trộm cắp tại các cửa hàng, siêu thị (lưu ý lá cờ đỏ rớm máu và khẩu hiệu Lao động là vinh quang, không tự tạo ra giá trị nên phải trộm cướp để tọa hưởng?) http://danquyenvn.blogspot.nl/2014/12/quoc-ky-csvn-uoc-in-vao-poster-canh-cao.html#more

clip_image012Văn hóa "Hà Lội":

Câu đối số 8:

- Phở chửi, cháo la, "văn vật" gớm!

- Bún lườm, ốc nguýt, "thủ đô" ghê!

(Chủ các quán ăn vừa bán vừa la lối chửi mắng thực khách mà khách vẫn chấp nhận bất đắc dĩ như một "thú vui" thì nền văn hóa ẩm thực độc đáo này có lẽ chỉ đất Hà thành "nghìn năm ôn vật" mới có!!

Câu đối số 9:

- "Thù địch" phần đông là tử tế!

- "Tà-Ru" hầu hết lại văn minh!

------------------------------------------

"Thù địch": Những nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ tiền phong trong cuộc canh tân đất nước như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Điếu Cày, Nguyễn Quang Lập… (và một danh sách hàng trăm, không thể kể ra đây) đều bị gán cho tội liên quan đến các thế lực thù địch nên mắc vào các tội phản động, chống đảng, chống chính quyền…

"Tà-Ru" = Tù ra (chữ của nhà văn vừa quá cố Bùi Ngọc Tấn) nghe như tên một tộc dân thiểu số còn ăn lông ở lỗ vậy, nhưng chính là những trí thức-văn nghệ sĩ tiền phong đáng kính đã trải qua tù ngục của chế độ mới, nay đã ra tù.

Nghịch lý ấy đã được nói ra từ giới bình dân, xin viết ra đây mấy câu ca dao tôi nghe được ngay tại Hà Nội:

Lượm lặt ca dao

Những người Đảng ghét dân yêu

Ngẫm ra phần lớn là siêu anh tài

Những người đảng đến khoác vai

Xem ra tất cả là loài bất lương

(Ca dao ghi được ở Hà Nội)

clip_image014

Câu đối số 10

- Kim-cổ giao duyên, tượng đá tiền nhân đành… bất động!

- Bi-hài nghịch cảnh, môi son hậu thế nhạo… vô tình!

Thoạt nhìn bức ảnh trớ trêu này ta dễ dàng bỏ qua, chỉ thấy một trò chơi nghịch ngợm của lứa trẻ ngày nay. Nhưng rồi bất giác một nỗi buồn từ đâu đó hiện về, man mác… khiến tiếng cười như nghẹn lại nửa chùng.

Văn hóa tang chế và nỗi buồn phong thủy

Câu đối số 11

- Thương nhà này cha chết đã lâu, oan khí hồi luân, dương thế cứ nhấc lên đặt xuống!

- Buồn đám nọ mẹ già vừa khuất, vòng hoa tiễn biệt, âm binh vào phá ngược phá xuôi!

clip_image016

Câu đối số 12

Dân với Đảng thi nhau làm xiếc

- Đảng đu dây, dân bắt chước đu dây, dẫu dây cáp mảnh như dây rạp xiếc (cirque)!

- Tiền vào túi, người cũng chui vào túi, nhưng túi quan dày hơn túi ny-lông (nylon)!

clip_image017

*****************

Phần III

Cụ Dê, vị Thành hoàng làng SEX

clip_image019

Ngày Tết đã trang trọng, chữ nghĩa Câu đối Tết chắc càng phải trang trọng hơn, nói chuyện lỗ mãng coi chừng thất lễ. Nhưng khốn nỗi, thưa các cụ, Tết này lại là Tết con Dê! Cụ Dê vốn là thủy tổ, là đức Thành hoàng của làng Sex, là ngọn nguồn sinh sôi của muôn loài, nếu ta khinh tính DÊ là điều hạ tiện không nên nói tới thì tránh sao khỏi bị quở trách là đồ "quân tử Tàu" giả vờ sang trọng mà đắc tội với cái đại nghĩa Sinh tồn ở đời? Song, tự thấy mình bản lãnh quá non kém trong chuyên khoa này nên chỉ dám lướt qua vài Câu đối nhẹ nhàng, tự biết chưa xứng với đấng Sex chí tôn.

Chữ "Tàu" thua "Mỹ" nhân, có "mác-lê" làm chứng

Câu đối số 13:

- Đáng "mấy xu" chữ nghĩa mà khoe: nét thẳng mực tàu, vung bút pháp sắc như nét mác? (*)

- Đây "ba vạn" (*) núi đồi chẳng giấu: đường cong tuyệt mỹ, giết anh hùng ngọt tựa đường !

clip_image021

(*) Mấy xu: Giấy má nhà bay đáng mấy xu (Nguyễn Khuyến - Vịnh Tiến sĩ giấy)

Nét mácclip_image023là nét vuốt sắc nhọn trong chữ Nho.

(*) Ba vạn là tên húy của cái Yoni, rất cao giá, các cụ còn gọi nó là cái "ba vạn chín nghìn".

Đây cái "ba vạn chín nghìn" ngàn thu hóa đá

Tượng Yony bằng sa thạch khai quật tại di tích tháp

Dương Long (Tây Sơn) năm 2008.

Năm Dê, hỏi bác Hồ Xuân Mãn

Câu đối số 14

- Khai Cuội để anh hùng, công chẳng ra công, bác Mãn vẫn vui cùng Tết chứ?

- Máu  làm thủ lĩnh, tội thì đắc tội, họ Hồ có thẹn với Xuânkhông?

clip_image025

Ông Hồ Xuân Mãn nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, để lại trong dư luận hai ấn tượng xấu: Khai man lý lịch để được phong tặng anh hùng (còn bị tố cáo không phải đảng viên) và sàm sỡ nên bị "ăn quả vả" của một nữ tiếp viên, sau đó cô tiếp viên này phải chuyển đi nơi khác, thật tội!

Việt Nam bây giờ cứ y như Tam Quốc bên Tàu

clip_image027

Câu đối số 15

- Ô uế kiểu Tàu: chẳng Hán chẳng Tào, cũng Lã Bố, Điêu Thuyền, Đổng Trác! (*)

-Gian manh thói Việt: không Ngô không Ngụy, học Khổng Minh, Tào Tháo, Chu Du! (*)

(*)Việt Nam thời Cộng sản cũng có một ông quan đầu triều như Đổng Trác, chiếm cô bồ của con trai làm vợ, chỉ có điều khác: ả Điêu Thuyền này là gái đã bỏ chồng.

(*) Khổng Minh và Chu Du là kỳ phùng địch thủ (sinh Du hà sinh Lượng), vừa thân nhau, vừa bày kế cho nhau nhưng vẫn rình giết hại nhau, khi Chu Du chết Khổng Minh lại giỏ nước mắt cá sấu khóc Chu Du. Trong diễn biến tai họa mới đây của ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung ương, đã có bài bình luận rằng đây hệt như chuyện "Khổng Minh khóc Chu Du" bên Tàu.

Sung sướng đến tận Thiên đường xã hội chủ nghĩa

clip_image029

Ngày Tết vui cho ai buồn cho ai? Cứ tự hỏi như vậy là tôi nhớ ngay đến câu thơ Tố Hữu "Á-Âu đâu cũng lòng trong đục, Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu", như hiện ra trước mắt có hai nước Việt Nam sống trong hai cảnh khổ và giàu, khác nhau một trời một vực vậy. Ở thế giới của phú quý người ta đo bằng quyền và tiến đã đành, nhưng cũng có thể đo gián tiếp bằng sự dâm dục, bởi vì "phú quý" mà "bất năng dâm" thì hiếm có lắm. Trong thế giới của nghèo khổ thì khổ nhất là người phụ nữ, nhiều người không biết sống bằng gì nếu không bán chính cái thân để nuôi cái thân mà trong khoa nấu nướng người ta gọi đó là "lấy mỡ nó rán nó"! Phụ nữ là cái dây nối trung gian, nối thế giới nghèo nàn với thế giới giàu có, nối với nhau bằng hai cơ quan sinh dục mà dù giàu hay nghèo cũng vẫn giống nhau.

Mác Lê muốn đẩy cả nhân loại vào một xa lộ thẳng tuột đến Thiên đường Xã hội chủ nghĩa, nhưng đến nay chỉ có người hoàn toàn mất trí mới chờ đợi cái Thiên đường vẽ bằng sương bằng khói ấy, chứ ở mức độ một anh lú lẫn thì cũng chỉ dám bảo hãy chờ đến một trăm năm nữa là cùng, đâu dám cam đoan là sẽ có? Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ bán thuốc cao Cộng sản nọ đã tuyên bố từ năm 1961 rằng "miền Bắc, thiên đường của các con tôi"! Nhưng ông ấy khai thật đấy, giới Cộng sản chóp bu họ đã có Thiên đường của họ từ lâu, đo bằng quyền và tiền thì quá rõ, nhưng nhân ngày Tết con Dê này hãy thử đo bằng sự dâm dục.

Những người chăn dê kể rằng mỗi buổi sáng đưa đàn Dê ra khỏi trại thì con Dê đực đầu đàn đứng "gác" ngay cổng, nó "duyệt" hết từng chị Dê cái đi qua, không sót chị nào. Tôi cũng được nhiều cán bộ gần gũi Trung ương miền Bắc và Trung ương cục miền Nam kể rằng nhiều thủ lĩnh Cộng sản cũng "duyệt" hết đội ngũ chị em nhân viên trong tay hắn như vậy.

Nước ta bây giờ cái thế giới của Thiên đường Cộng sản đã hiện ra bằng xương bằng thịt, họ sung sướng thật. Còn trong thế giới lầm than, nơi những chị em phải bán thân nuôi miệng, đã có lời mời chào dẫn khách rằng: Để em dẫn anh đi, nơi"sung sướng đến tận Thiên đường Xã hội chủ nghĩa"! Sung sướng đến nơi ấy là tột cùng, đúng cả nghĩa đen nghĩa bóng. Bọn "cò dâm" này ví von thế mà chính xác đến từng mi li mét, lấy chất "Xã hội chủ nghĩa" để đo sự sung sướng ở những chỗ thâm nghiêm kín cổng thì quả là uyên bác, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, thật đáng để các nhà ngôn ngữ hàn lâm bái phục.

Các cô gái Sông Hương trong thơ ông Lành đã được ông Lành hứa hẹn "ngày mai em sẽ từ trong ra ngoài, thơm như hương nhụy hoa nhài". "Hoa nhài" thì nhất, ướp trà Tàu mà nhấm nháp thì sướng. Nay chị em "thơm như hoa nhài" đã di tản khỏi vùng Cố đô cổ kính mà tràn ra khắp nước, đặc biệt là ở vùng Thủ đô ngàn năm văn/sinh/ôn vật, một nơi cứ nói đến tên là các cụ lại phải nhớ đến "hoa nhài", dù cư dân nơi ấy chín phần mười đã là dân tứ xứ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Tôi cũng xin được "dây máu ăn phần", từ trai Đông Hồ đã thành "người Tràng An" từ năm 1949, nên tự nhiên cũng thích hoa nhài. Như đã hứa ở phần đầu, nay là Tết Ất Mùi nên theo phép cụ Dê làng Sex, Câu đối cũng điểm một chút hoa nhài sông Hương vào bức tranh "hai cảnh khổ-giàu" mà sự tương phản giàu nghèo đã ngày càng ác liệt, bằng một Câu đối nôm na.

Đối rằng: (Câu đối số 16)

- Ông Lành kia sống dậy mà thương! Nay bạt ngàn cô gái sông Hương, sướng lên tận Thiên đường chủ nghĩa!

- Bóng Ác nọ (*) khuất rồi chẳng biết? Vẫn chán vạn thần dân nước Việt, đau đến cùng Địa ngục trần gian !

(*) Bóng Ác=Mặt trời. Hai Đảng Cộng sản Việt và Tàu đều gọi lãnh tụ tối cao là vầng hồng, vầng dương, ánh dương, tức là Mặt Trời… không bao giờ tắt! Sinh thời, ông Lành là người rất ca ngợi những "bóng Ác" vĩ đại. LÀNH là Thiện, đối với ÁC thì cũng yên tâm rồi, duy một điều lấy "nước Việt" đối với "sông Hương" thì còn đôi chút băn khoăn không biết có tương xứng không, nhưng nghĩ lại cũng tự cho OK luôn, bởi thôi thì lớn nhỏ cũng là chuyện "sông nước" lênh đênh cả.

******************

MỜI ĐỐI

1/ Mời đối 1: - Hết khoe MÃ một thời, NGỌ ngoạy lắm cũng ra vành móng NGỰA!

2/ Mời đối 2: - Giáp Ngọ sắp qua, vài chú Ngựa non còn háu đá!

3/ Mời đối 3: - Mùi  sống chẳng thơm gì, khéo xào nấu cũng bốc thơm ra phết!

4/ Mời đối 4: - Nhà trong nuôi CHÓ một đàn, ngoài cửa hiệu đầu  treo lủng lẳng!

5/ Mời đối 5: - Ngựa Hồ hí gió Bắc (1)

6/ Mời đối 6: - Chẳng phải Trung Hoa, cũng Lã Bố, Điêu Thuyền, Đổng Trác!

7/ Mời đối 7: - Mạnh tử gặp Sinh Hùng cũng "tử"! (2)

8/ Mời đối 8: - Chống trộm cướp gian manh, thế giới quen tay dùng chữ Việt!!!

9/ Mời đối 9: - "Thù địch" phần đông là tử tế!

10/ Mời đối 10: - Thương nhà này cha chết đã lâu, oan khí hồi luân, dương thế cứ nhấc lên đặt xuống!

11/ Mời đối 11: - Ô uế kiểu Tàu: chẳng Hán chẳng Tào, cũng Lã Bố, Điêu Thuyền, Đổng Trác!

(1) Vì vẫn còn dư âm năm Ngựa nên xin mời đối một câu về Ngựa này.

"Ngựa Hồ hí gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam" (Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi) tuy là ngạn ngữ Trung hoa, như hai vế đối hoàn chỉnh, nhưng từ lâu đã được Việt hóa để tả nỗi lòng người dân nhớ nước thương nhà. Vì thế cụ Phan Bội Châu đã lấy hiệu là Phan Sào Nam.

(2) Ông Mạnh tử ngày xưa nói về dân một câu nổi tiếng: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nay ông Chủ tịch Quốc hội Sinh Hùng cũng nói với dân một câu nổi tiếng: Quốc hội là của dân, nên Quốc hội sai thì dân phải chịu, còn kêu ai! Vì vậy xin nối hai "danh ngôn" này thành một vế xuất đối. Hai vị này cùng nói về dân, mà sao cái tên cứ đối nhau chan chát: Ông kia "MẠNH" thì ông này "HÙNG", ông này "SINH" thì ông kia "TỬ"! Thật ngộ!

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam

Nguồn ijavn

Ở Việt Nam có những thứ và những điều vô cùng vô lý nhưng vì những thứ đó đang ở Việt Nam nên ai cũng cho rằng nó có lý và không có vấn đề gì. Có những thứ và những điều mà chỉ có ở Việt Nam, không có nước nào có. Hy vọng nhiều người sẽ nhận ra. Danh sách như sau:



1. Sổ hộ khẩu. Trên thế giới chỉ có 3 nước áp dụng chính sách này, cả 3 nước đều là 3 cường quốc của thế giới, là thiên đường. Đó là Việt Nam, Trung Quốc và….Bắc Hàn. Tôi thật sự không hiểu nổi mục đích của cái sổ hộ khẩu là gì, trừ việc làm mồi kiếm ăn cho mấy anh chị Công An. Nếu bạn nào có thế giải thích trong 1 câu "tại sao chúng ta lại có sổ hộ khẩu" tui chết liền. Ở xứ khác khi sinh ra chỉ có giấy khai sinh rồi lớn lên làm cái thẻ, hộ chiếu. Vài nước thì dùng bằng lái xe làm chứng minh. Muốn đi đâu thì đi, nước củs mình mà. Tại sao mỗi lần chuyển địa phương là phải đi khai tạm trú, kt3. Mấy cái này là gì tui hiểu tui chết liền.

2. Đi mua xe đi đăng ký tên mình phải dùng sổ hộ khẩu vè đăng ký tại nơi thường trú (nơi đăng ký hộ khẩu). Nó vô lý ở chỗ này. Bạn là dân Lạng Sơn chuyển công tác vô làm ở Cà Mau, bạn muốn mua xe máy và đứng tên bạn, lỡ xe có bị trộm thì người ta biết xe đó là của mình. Nhưng ở Việt Nam thì nếu mua ở Cà Mau thì dân Lạng Sơn phải chở xe về Lạng Sơn đăng ký. Có cái nước nào khác trừ Việt Nam làm vậy không? Có ai biết thì nói nha, tại tui khờ lắm, hiểu biết về thế giới bên ngoài Việt Nam kém nữa.

3. Cảnh sát giao thông kiểm tra xe nếu không có đủ giấy tờ sẽ bị giam xe. Tại sao người lái xe phải chứng minh xe đó là của người lái? Sao CSGT không chứng minh điều ngược lại. Phi logic. Còn việc giam xe thì tui chưa biết xứ nào khác làm vậy hết.

4. Thuế "chuyển đổi mục đích sử dụng đất". Tui chưa biết xứ nào khác có cái thuế quái dị như vậy. Đây là loại thuế làm cản trợ quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Bạn là một nông dân có 100 mét vuông đất nông nghiệp. Bạn muốn dùng 50m2 đó để xây cái hang. Bạn phải đi tới Sở Tài Nguyên Môi Trường nộp đơn chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Số tiền đó cộng với bôi trơn đút lót thì gần bằng giá bán thị trường rồi. Thế thì bạn phải bán đi 50 m2 còn lại. Nghĩa là cái thuế này làm mọi thứ liên quan tới đất đai mắc gấp đôi. Một trong những thứ khùng điên nhất.

5. Đi nộp giấy tờ phải đi công chứng rồi phải có con tem xác nhận. Đã vậy còn phải xin xỏ mấy bé mấy *** ** làm hành chính nữa chứ.

6. Đi "xin" việc ở cơ quan nhà nước, công ty quốc doanh và một số công ty tư nhân phải nộp "sơ yếu lý lịch". Sơ yếu lý lịch yêu cầu bạn phỉ ghi rõ về gia đình và bản thân: Trước và sau 1975 đã và đang làm gì. Tui và gia đình tui làm gì trước sau 1975 thì liên quan gì tới năng lực yêu cầu của công việc?

7. Đi làm tự thiện phải (nộp đơn) "xin phép" Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận Giải Phóng địa phương. Trời ơi, đã đi từ thiện, là bỏ tiền túi mình ra cho người khác, đã vậy còn phải đi xin giấy phép là sao? Độc Lập Tự Do Hành Phúc đâu rồi?

8. Tham gia các giải thể thao ở tỉnh (và vài thành phố) phải có hộ khẩu và sổ tạm trú ở đó. Thể thao Thái Lan đang phát triển với quy vô chinh phục Châu Á. Trong khi đó ở Việt Nam các nhà làm thể thao hỏi "hộ khẩu con đâu?". Thấy có ngu không?

9. Đi du lịch hoặc ở khách sạn nhà nghỉ phải đưa hộ chiếu hoặc Chứng Minh Thư cho tiếp tân. Ở xứ khác tui chỉ trình cái thẻ Master hoặc Visa. Nếu đưa hộ chiếu thì họ photocopy xong rồi đưa lại chứ không giữ. Tui chưa biết cái xứ nào làm vậy, trừ Việt Nam.

10. Trước giải, buổi, hội hay chương trình gì cũng phải giới thiệu danh sách mấy quan có mặt. Đã vậy danh nghĩa dài dòng lê thê. Có cần phải đọc tên từng người một, chờ từng người một đứng dậy ngồi xuống không. Tui thật sự không hiểu cái logic. Tui chưa bao giờ thấy 1 giải hay trận thể thao nào ở nước ngoài làm vậy.

11. Các trung tâm thể thao trưng khẩu hiệu "rèn luyện thể thao theo giương Bác Hồ vĩ đại". Sao xứ Mỹ không trưng khẩu hiệu "tập luyện theo gương George Washington vĩ đại"? Bác Hồ hồi đó có tập thể thao mà sao tui không biết ta. Chuột cơ tay đô nữa, giờ tui mới biết. Phải ráng tập để nói theo gương Bác Hồ Vĩ Đại mới được.

12. Tất cả các giấy tờ hành chính pháp lý phải có dòng chữ này ở trên "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc". Giấy xin phép nghỉ học cũng vậy, giấy báo cáo cũng vậy luôn. Xứ khác có vậy không ta?

13. Đi toilet ở Bến Xe (Miền Đông, Miền Tây, tỉnh, thành phố) mỗi lần phải trả 2,000 VND.

14. Toilet công cộng thường không có giấy vệ sinh. Vậy người ta dung gì để chùi *** ta?

15. Làm xong cái hội thảo hay chương trình gì lớn chút cũng phải nói : "Cảm ơn các lãnh đạo đã tạo điều kiện."

16. Quân Đội đi làm kinh tế: Viettel, MB Bank, Xăng Dầu Quân Đội, Binh Đoàn 318 Dầu Khí. Tui thật sự không hiểu. Quân đội gì mà làm kinh tế kinh doanh?

17. Quân Đội tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp. Tui chưa biết quân đội nước nào khác làm vậy.

18. Cảnh Sát Nhân Dân tham gia thể thao thành tích chuyên nghiệp.

19. Quân Đội phong hàm sĩ quan cho vận động viên đạt thành tích. Mặc dù chưa bao giờ qua trường lớp đào tạo sĩ quan, chưa bao giờ có kinh nghiệm cầm lính, chưa bao giờ có kinh nghiệp chiến trường. Hàm sĩ quan vô nghĩa vậy sao? Bạn là cha mẹ thì có cho con mình vô cái quân đội như vậy không? Vận động viên đạt thành tích thể thao thì liên quan gì tới phong hàm sĩ quan quân đội? Tui chưa biết quân đội xứ nào khác làm vậy hết.

20. Đi xin việc làm vô mấy cơ quan nhà nước hay quốc doanh phải lót tiền, cả trăm triệu hơn chứ không kém. Có xứ nào khác làm vậy không ta?

21. Đánh thuế kinh doanh trên facebook. Cái này miễn ý kiến.

22. Sinh viên học ĐH hay CD cũng phải học 1.5 năm lý thuyết kinh tế triết học Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.5 năm của cuộc đời mà sinh viên sẽ không lấy lại được.

23. Và cuối cùng, Đảng Cộng Sản đấu tranh hy sinh cả triệu người dân trong cuộc chiến chống Pháp, Mỹ Ngụy vì lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, nhưng cuối cùng lại dùng chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường để làm giàu. Vậy cả triệu người Việt đã chết làm gì. Cuộc chiến đó có nghĩa gì?

(Theo Triết học đường phố)

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Nguyễn-Xuân Nghĩa - Hậu Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn: Những Pavlov Mang Họa

Nguồn diendantheky

Chủ Nhật, ngày 08 tháng 2 năm 2015


Đã được tác giả trình bày tại buổi tưởng niệm nhà văn Bùi Ngọc Tấn và ra mắt cuốn Hậu Chuyện Kể Năm 2000 vào chiều ngày 7 tháng 2 năm 2015 tại báo Người Việt, Miền Nam California.
 

Với tôi, đây là một sự vinh hạnh khi được mời lên diễn đàn này trình bày về tác phẩm cuối cùng, là di cảo mới nhất, của nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

Sau cả vạn người đã đọc ông và cả trăm người đã phát biểu về con người và văn nghiệp của Bùi Ngọc Tấn, tôi là người muộn màng đẩy một cánh cửa đã mở sẵn. Vì vậy, xin quý vị thông cảm cho nếu chẳng nói điều mới lạ.

Hôm mùng năm vừa rồi và sáng nay lên chùa, tôi đã thắp một nén nhang cầu nguyện nhân dịp 49 ngày tạ thế của Bùi Ngọc Tấn. Nơi đây, hiển nhiên là quý vị cũng đã tưởng niệm như rất nhiều người Việt khác trên địa cầu trong thời gian qua. 


Được yêu cầu giới thiệu cuốn Hậu Chuyện Kể Năm 2000 do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa phát hành, tôi đã có một kinh nghiệm cay đắng ngọt bùi.

Ngọt bùi là khi thưởng thức một tác phẩm văn chương khiến mình đọc rất chậm, rồi đọc lại, nhất là những đoạn bi thương về gia đình tác giả gồm có sáu người. Cay đắng là khi phải đặt sách xuống trong tiếng thở dài, có khi là sự phẫn nộ, về con người và đất nước thê thảm của mình. Nhưng những cảm giác riêng tư ấy thật ra hoàn toàn vô ích ở đây. Từng người trong quý vị sẽ có nhận thức riêng của mình sau khi đọc.

Tôi chỉ xin nói rằng đây là một tác phẩm nên đọc - và phải đọc. 

*** 

Trước hết, một cách ý thức hay vô thức, mọi nhà văn đều tiếp nhận những gì đã được viết ra từ trước. Vì vậy, khi nói về một tác phẩm văn chương, chúng ta đều có thói quen đối chiếu, đó là so sánh tác phẩm này với tác phẩm kia, của cùng một nhà văn hay của nhiều tác giả khác. Tôi khó làm chuyện đó vì chẳng có cơ sở gì để đối chiếu hay so sánh. So sánh với Tolstoy, Dostoevsky hay Ghoerghiu sao?

Bùi Ngọc Tấn có chỗ đứng riêng với những tác phẩm lừng danh của ông, không vì số phận hẩm hiu của tác giả mà vì giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Chúng ta nên tìm đọc để biết là vào hậu bán thế kỷ 20, người Việt viết văn ra sao. Cũng như phải đọc Vũ Trọng Phụng để nhìn một đỉnh cao của nghệ thuật văn chương Việt Nam trước khi có tai ách cộng sản. Hai cây bút viết trong hai hoàn cảnh với văn phong quá khác biệt, mà vẫn là tiêu biểu cho hai thời kỳ.

Và tiêu biểu nhất cho thời kỳ cộng sản là cả hai tác giả này đều bị chế độ đả kích!

***

Sau biến cố 1.9.7.5., những người ở miền Nam chúng ta có 20 năm gần như bị bão hòa với nhiều cuốn sách viết về kinh nghiệm tù đầy của chế độ cộng sản, mà người ta gọi là "cải tạo" – dù có tập trung hay không. Trong hoàn cảnh chính trị thời đó, những ai lạnh lùng tỉnh táo thì chịu đựng và kết luận rằng đó là luật chơi tàn khốc của lẽ thắng bại. Nó độc ác và vô ích. Thế thôi.

Nhưng sau đấy, từ những năm 1995 trở về sau, trong hàng ngũ của những người chiến thắng, từ bên trong xã hội cộng sản đã thống nhất trên cả nước, bỗng xuất hiện nhiều cuốn hồi ký về cái nạn tù đầy và cải tạo của những người đã góp phần tạo nên chiến thắng 1.9.7.5.

Tức là hơn 40 năm sau cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" của Hoàng Văn Chí về nỗi oan khiên giành cho giới nghệ sĩ và trí thức trong nhóm "Nhân Văn Giai Phẩm" tại miền Bắc, chúng ta mới phát giác là qua gần nửa thế kỷ tương tàn ấy, nhiều người ở miền Bắc đã có kinh nghiệm về "cải tạo" rất sớm.

Mà họ lại không may mắn bằng những người tù ở trong Nam.


Tù cải tạo ở trong Nam còn có một lý do tự an ủi, dù mong manh, rằng mình chống họ thì khi thua trận tất nhiên là bị hành hạ. Những người tù ở miền Bắc không được như vậy. Họ thành thật dâng hiến tuổi thanh xuân cho "cách mạng", và chẳng có tội gì như trường hợp Bùi Ngọc Tấn, vậy mà cũng bóc lịch hay chăn kiến trong tù.

Người miền Nam dùng chữ "bóc lịch" làm ta liên tưởng đến tư thế đứng. Chứ "chăn kiến" thì phải ngồi. Mà đứng hay ngồi thì cũng đều ở trong cũi cả! Tù trong hay tù ngoài, tù trước và tù sau, tù ta hay tù nó đều là tù cả! Sau đó thì gia nhập bộ lạc "Tà Ru". Tù ra để sống trong một nhà tù lớn hơn, và rất dễ mắc bệnh tâm thần vì hàng ngày hàng giờ vẫn có cảm giác như bị theo dõi để lại trở về chốn cũ, là trại giam cũ.

Những phát giác ấy đến với người ở trong Nam khi đọc Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, rồi Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn hay Đèn Cù của Trần Đĩnh. Nỗi ê chề đó càng khiến mình ân hận là không cố gắng nhiều hơn để đất nước có một kết cục khác.

Qua đến tác phẩm mới, và là cuối cùng, của Bùi Ngọc Tấn, Hậu Chuyện Kể, chúng ta còn được một di sản khác. Một bức tranh xã hội của miền Bắc trong những năm chiến tranh.

Nói như một kẻ vô tư và vô tâm của người thiên về xã hội học hay người chuyên về "ác học của nhân loại", thì Chuyện Kể Năm 2000 là một cuốn phim hay.

Sau đó 15 năm, ta lại được xem nhiều trích đoạn hay trailers về việc thực hiện cuốn phim nổi tiếng này. Nếu chỉ như vậy thì tác phẩm mới chẳng quảng cáo gì thêm cho tuyệt tác kia. Nét nhân hậu của Hậu Chuyện Kể là vẽ ra chân dung của nhiều nhân vật đã góp phần hoàn thành cuốn phim. Tôi dùng chữ "nhân hậu" vì chú ý nhất đến sự kiện là trong xã hội cùn mằn độc ác đó vẫn có loại người bất thường đến siêu phàm.

Họ dám sống thật, nói thật và chật vật tranh đấu để một cuốn sách vừa phát hành đã bị cán thành bột - mà vẫn xuất hiện ở nơi khác. Xin hãy đọc để xem Bùi Ngọc Tấn cùng gia đình và bạn hữu đếm thế nào về 1.500 cuốn sách đã xuất bản, đã phát tán mà vẫn phải gom đủ cho chế độ thủ tiêu! Chung quanh ông vẫn còn chán vạn người tử tế nên ở bên ngoài chúng ta mới được đọc Chuyện Kể Năm 2000.

Vì vậy chúng ta không nên tuyệt vọng.

***

Là kẻ ngoại đạo của thế giới nghệ thuật, tôi cứ nghĩ rằng nghệ sĩ không thể là người trầm tư. Ta chẳng thể cứ ngồi Thiền mà thành Phật được! Cũng vậy, nghệ sĩ là người muốn làm một cái gì đó thật đẹp, và phải cố làm thì may ra mới biết cái đó là cái gì! Mà rồi đẹp hay xấu là thuộc quyền thẩm định của người khác.

Bùi Ngọc Tấn là nhà văn bị bẻ bút mất 20 năm sau năm năm tù đầy, mà vẫn cố làm một cái gì đó. Mất cả chục năm mới ra một chuyển kể cho hậu thế, của thế kỷ 21. Cuốn Hậu Chuyện Kể viết về sự cố gắng đó. Ngoài giá trị của một bức tranh xã hội, hay bối cảnh cho việc nghiên cứu về xã hội học của một chế độ tồi bại, cuốn sách mà chúng ta chào mừng hôm nay còn cho thấy tiến trình gian nan của sự cố gắng, sự sáng tạo.

Kinh khủng nhất là khi ông viết mà vẫn thấy bóng cây xoan dật dờ trong trí nhớ lại cũng mập mờ che khuất sự dòm ngó của chế độ! Nhiều khi các nghệ sĩ muốn làm đẹp cho đời thì cũng là những người bị đời hành hạ nhiều nhất.

Nén nhang cho Bùi Ngọc Tấn cũng phải là lời tri ân. 

*** 

Sau cùng, tôi xin được nói về một chuyện ngoài văn chương, khi cảm được tiểu tựa của cuốn sách, là Thời Biến Đổi Gien.

Các nhà bác học về nhân chủng hay khảo cổ có thể giảng cho chúng ta rằng loài người đã mất cả triệu năm, rẻ nhất là mấy vạn năm, mới từ trạng thái bò bốn chân và suy nghĩ bằng cái bụng tiến dần lên trình độ đứng thẳng. Sau cả vạn năm vục mặt xuống đất, chúng ta mới dần dần đi bằng hai chân và suy nghĩ bằng cái đầu, với bộ não ngày càng lớn hơn theo tầm nhìn xa hơn và cao hơn.

Chế độ cộng sản lại hoàn thành một phép lạ - tôi gọi là phép lạ chứ không là một sự kỳ diệu - là chỉ trong một thế hệ là có vài chục năm đã khiến nhiều người đi bằng hai chân biến thành loài thú bốn cẳng. Đấy là hiện tượng đổi gien. Đám hậu sinh của Pavlov với thử nghiệm rất khoa học về phản xạ của con chó để điều kiện hóa con người lại tự biến thành con vật bốn chân có khả năng đánh hơi rất cao.

Những kẻ bò bốn chân là bọn khuyển ưng khuyển phệ xục xạo vào thế giới của con người bình thường để bảo vệ một chế độ bất thường. Họ là những kẻ suy nghĩ bằng bụng dạ hẹp hòi và được huấn luyện để áp bức người khác qua đủ loại bạo lực.

Trong cuốn sách, Bùi Ngọc Tấn còn cho biết thêm rằng cái loài bốn chân ấy vẫn có kẻ... nối dõi tông đường. Ông đã bị hai thế hệ theo nhau bách hại. Rồi tủm tỉm cười với vẻ hiền hòa cố hữu. Rằng ông có sống đến 120 tuổi đâu để trở thành đối tượng của thế hệ công an đời thứ ba!

Tôi trộm nghĩ rằng thế hệ thứ ba của loài thú bốn chân ấy sẽ sớm thất nghiệp chính là nhờ nhiều tác phẩm có khả năng cảm hóa như của Bùi Ngọc Tấn. Ông không còn ở với chúng ta nữa, nhưng ta nên tự chuẩn bị cho tiến trình "cải tạo ngược".

Là với lòng nhân sẽ giúp cho đám người độc ác kia trở lại trạng thái bình thường, để dân ta được sống bình thường trong tự do như các xã hội văn minh khác. Đọc cuốn sách như một di cảo buồn, tôi vẫn thấy ra niềm hy vọng đó. 

Nguyễn-Xuân Nghĩa


Nam California, ngày 2015.02.07