Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

NGÀY SUY NGẪM CỦA DÂN TỘC

Nguồn viet-studies

 

- Thay vì "Ngày toàn thắng", "Ngày thống nhất", "Ngày quốc hận"... ngày 30 tháng 4 năm 1975 từ nay nên được coi là "Ngày suy ngẫm" của dân tộc.

Chris Tran.

 

Hà Nội, Chủ nhật, 26 tháng 4 năm 2015.

 

Ký ức về cuộc chiến

Tôi sinh ra trong một gia đình cha mẹ là những đảng viên cộng sản tập kết ra miền Bắc vào năm 1954. Những người như cha mẹ tôi là thiểu số trong đại gia đình hai bên. Đa số họ ở lại miền Nam. Và rồi Tổng tuyển cử không diễn ra như dự kiến do Hiệp định Geneva bị phá vỡ. Đất nước bị chia cắt thành hai miền, Bắc và Nam. Cơ hội thống nhất trong hòa bình đã bị bỏ lỡ.

Tuổi thơ của tôi trải qua toàn bộ thời kỳ chiến tranh mà đối với miền Bắc Việt Nam là hai giai đoạn Mỹ ném bom, lần thứ nhất là từ 1964 đến 1968, và lần thứ 2 là từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 12 năm 1972, đánh dấu bằng thất bại của chiến dịch rải thảm B52 của Mỹ, với tuyên bố của Tổng thống Mỹ Nixon "đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá".

Với những cuộc ném bom hủy diệt miền Bắc và đưa một nửa triệu quân đổ vào miền Nam, Mỹ đương nhiên được coi là xâm lượcViệt Nam, và bị cộng đồng quốc tế kịch liệt phản đối, với phong trào chống can thiệp của Mỹ vào Việt Nam diễn ra trên khắp thế giới.

Cha mẹ tôi không kể nhiều cho các con của mình về những người thân ở miền Nam, ngoại trừ một người cậu của tôi, một Việt Cộng ở Quảng Nam bị mù hai mắt vì trúng bom Mỹ, được đưa ra miền Bắc và có thời gian an dưỡng ở Trung Quốc. Sau năm 1975 tôi được biết rằng, tất cả những người khác trong gia đình hai bên cha mẹ tôi đều là những người phục vụ chính quyền Sài Gòn, dân sự hay quân sự.

Thế rồi ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến...

"Đất nước hoàn toàn thống nhất, sạch bóng quân thù, non sông từ nay liền một dải..." - Đó là những gì mọi người luôn được nghe những ngày sau đó trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Sau ngày đầu tiên cùng nhà trường đi diễu hành mừng "miền Nam giải phóng" hô khẩu hiệu đến khản giọng, tôi trở lại cuộc sống bình thường với tâm trạng háo hức, tò mò của một thiếu niên về chuyến vào Nam gặp người thân họ hàng mà tôi chưa từng biết.

 

Thống nhất đất nước và hai phía của gia đình

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu thời kỳ "Đất nước thống nhất".

Thông tin tuyên truyền từ miền Bắc làm cho người ta phân biệt "nhân dân miền Nam" - những người được xem là sống dưới ách kìm kẹp của chế độ Sài Gòn, với "ngụy quân và ngụy quyền" - những người phục vụ trong bộ máy nhà nước và quân đội của chính quyền Sài Gòn, "tay sai" của đế quốc Mỹ.

Thông tin tuyên truyền từ miền Nam làm cho người ta khiếp sợ về một cuộc trả thù "tắm máu" của cộng sản, về chế độ "cộng vợ, cộng chồng"... nếu miền Bắc chiến thắng.

Bất chấp tuyên truyền từ hai phía làm cho người ta dễ dàng có những dự cảm tiêu cực về người thân trong một gia đình từ hai miền Nam và Bắc, các cuộc đoàn tụ với người thân cả hai bên nội ngoại của gia đình tôi đều chan chứa tình cảm ruột thịt.

Khi đó, tôi không thấy sự thấp kém của những người thân được coi là "ngụy quân, ngụy quyền" như tuyên truyền, và tôi tin những người thân của gia đình tôi cũng không coi chúng tôi, những người từ miền Bắc vào là "cộng sản man rợ". Tình yêu thương gia đình trong dòng họ tràn ngập trong chúng tôi. Không những thế, tôi còn chứng kiến sự ngưỡng mộ của những người thân từ miền Nam đối với cha mẹ tôi là những người thành đạt và có địa vị xã hội nhất định trong chính quyền miền Bắc Việt Nam, cũng như thấy cha mẹ tôi ngưỡng mộ những người thân thành đạt trong chính quyền miền Nam Việt Nam, từ sĩ quan quân đội đến nghị sĩ quốc hội.

Và tôi cũng thấy điều hoàn toàn tương tự ở những gia đình có người thân từ cả hai miền Bắc, Nam. Tuy nhiên, không ai biểu thị tình cảm đó một cách công khai, mà chỉ trong gia đình, với người thân mà thôi.

Sau này trưởng thành, xây dựng gia đình, tôi lại được chứng kiến mạnh mẽ một lần nữa bức tranh đó ở gia đình của vợ tôi, một gia đình có nhiều người thành đạt và có địa vị xã hội ở cả hai chính quyền miền Bắc và miền Nam.

 

Cải tạo, phân biệt đối xử

Đó là trong gia đình, còn ở bình diện xã hội, mọi điều diễn ra rất khác. Có rất nhiều người thân của gia đình tôi thuộc "ngụy quân, ngụy quyền" phải trải qua những năm cải tạo khắc nghiệt, từ vài năm đến hàng chục năm.

Sau những cuộc cải tạo đó, không một ai cải tạo cả.

Cậu tôi, một trung tá tâm lý chiến của quân đội Sài Gòn khi chiến tranh chấm dứt, có nói với tôi sau khi đi trại cải tạo về: "Cải tạo gì? Chính họ được cậu cải tạo họ vì họ có biết gì đâu". Nếu biết nội dung của những cuộc cải tạo đó là gì, chắc ngày nay người ta đều đồng ý với cậu tôi.

Rất nhiều người, sau những cuộc cải tạo đó đã lựa chọn định cư ở Mỹ.

Một người anh họ của tôi, chỉ là một giáo viên dạy tiếng Anh giỏi, cũng bị sa thải, phải kiếm sống bằng nghề xe đạp ôm và không bao giờ trở lại sự nghiệp của mình nữa.

Con cái của những người thuộc chế độ Sài Gòn còn không được học hành như các bạn cùng trang lứa, như không thể vào trường đại học, không được du học... Khi tương lai mờ mịt, họ phải tìm đường di cư ra nước ngoài.

Trong hàng triệu người bỏ nước sau 1975, cho đến những năm 1990 có những người thân của tôi. Có người phải "vượt biên" tới bảy lần, vô cùng tốn kém và nguy hiểm, mới có thể định cư ở nước ngoài. Có trường hợp nhiều gia đình người thân của tôi tổ chức cùng vượt biên, và may mắn thành công. Sau này tôi mới được nghe về thảm họa "thuyền nhân" với hàng chục ngàn người Việt Nam mất mạng dưới biển hay vào tay cướp biển.

May mắn thay, thế giới đã dang tay đón nhận họ khi họ bị từ chối ở chính quê hương mình. Chỉ mới năm 2013, tôi mới được biết đất nước Israel nhỏ bé cũng từng đón nhận hàng trăm thuyền nhân từ Việt Nam, điều mà nhiều người Việt Nam không hay biết.

Tôi vẫn còn thắc mắc, vì sao một thảm họa nhân đạo quy mô toàn cầu như vậy lại không được ghi lại ở bất kỳ đâu trên thế giới, như những khu tưởng niệm về diệt chủng người Do thái của chủ nghĩa phát-xít tại nhiều nơi trên thế giới, để không bao giờ nó được lặp lại?

 

Ngày chiến thắng, ngày quốc hận và chia rẽ

Những ngôn từ cao sang nhất đã được giành cho chiến thắng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, với đỉnh cao là "Chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc" mà số người Việt Nam đồng ý hay không đồng ý có lẽ đều là hàng triệu.

Ở phía khác... Mãi đến năm 2000, kỷ niệm 25 năm ngày chiến tranh kết thúc, tôi mới được biết và chứng kiến lễ kỷ niệm "Ngày quốc hận" tại Washington DC. Và số người Việt Nam đồng ý hay không đồng ý về tên gọi của ngày này có lẽ cũng là hàng triệu. Tôi cảm thấy có lỗi khi biết về ngày này quá muộn để có thể chia sẻ về đau thương và mất mát của hàng triệu người Việt xa xứ, trong đó có những người thân của tôi, và hàng triệu người đã phải trải qua cơn ác mộng về cải tạo, về phân biệt đối xử, và trên tất cả, về thảm họa thuyền nhân.

Trong ngày lễ kỷ niệm đó, đi dọc theo Washington Mall, trong vô số biểu ngữ, tôi thấy có "Ở đâu có cộng sản, ở đó có chia rẽ". Tôi dịch cho anh bạn Mỹ đi cùng, người đã từng phục vụ trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam. Anh ta nói: "Người Việt Nam các anh, ở đâu cũng chia rẽ". Với hiểu biết của mình ở phía khác, miền Bắc, tôi không có gì khác hơn là đồng ý với anh bạn Mỹ đó.

Và tôi lại nhớ đến câu nói của người cậu trung tá tâm lý chiến: "Không có một dân tộc nào nói về đoàn kết nhiều, mà lại chia rẽ như dân tộc Việt Nam".

Ông cũng là người nói với tôi sau khi đi cải tạo về, những năm 1980: "Đừng tưởng thắng nhau là vinh quang. Việt Nam chỉ là con bài trong ván bài của các nước lớn, là Mỹ, là Liên Xô, là Trung Quốc".

Đó là điều chua xót, đáng suy ngẫm của người Việt Nam về sự chia rẽ bị lợi dụng của mình.

 

Bắc hay Nam, bên này hay bên kia

Người ta có thể phân chia người Việt Nam một cách đơn giản là người Bắc và người Nam, cộng sản hay không cộng sản, thắng cuộc hay thua cuộc. Sự phân chia phiến diện từ tiềm thức này là cơ sở của sự chia rẽ người Việt Nam.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, yêu quý thành phố tươi đẹp này, nhất là những năm tháng của tuổi thơ khi nó còn là đẹp nhất - Tôi là một "người Bắc". Quê nội ngoại của tôi ở Quảng Nam, dù chỉ về thăm vài lần trong đời, nhưng cảm thấy thân thương, ruột thịt - Tôi là một "người Nam". Cha mẹ tôi là đảng viên cộng sản. Mẹ tôi là một đảng viên mẫu mực với nhiều thành tích đóng góp cho xã hội, cha tôi là một đảng viên, mà theo lời ông, "chạy sang phía Việt Minh, vào đảng cộng sản vì sợ bị thủ tiêu" (cha tôi từng là một đảng viên của Quốc dân đảng) - Gia đình tôi là cộng sản. Tôi từng có nhiều năm phấn đấu, nhưng rồi từ bỏ và không bao giờ là đảng viên cộng sản - Tôi vừa là cộng sản, vừa không phải là cộng sản. Tôi thuộc "bên thắng cuộc", vào Nam với tâm trạng vui mừng khấp khởi và tò mò xem "bên thua cuộc" ra sao, rồi cảm thấy mình chính là "bên thua cuộc" khi chua xót thấy những người anh em họ hàng mình mất mát to lớn như thế nào khi thuộc về "bên thua cuộc".

Tôi cảm thấy mình ở khắp nơi, Bắc, Nam, cộng sản, không cộng sản, bên thắng cuộc, bên thua cuộc, được hưởng những điều tốt đẹp mà nhà nước ban cho, nhưng cũng bị tước những quyền cơ bản hiến định.

Có hàng triệu người Việt như tôi, cảm nhận thấy mình thuộc cả hai bên của ranh giới hiềm khích và hận thù?

Và, hơn tất cả sự phân biệt "bên này, bên kia" đó, trong khi hàng triệu người bị cuốn vào xung đột "ý thức hệ" - cộng sản hay không cộng sản, thì cái cộng sản từng luôn cuốn hàng triệu người, trong đó có những công dân ưu tú, với lý tưởng  độc lập tự do cao đẹp, không biết từ lúc nào đã trở thành công cụ đắc lực cho những kẻ xấu ngày càng đông đảo lợi dụng, trở thành quyền lực vô biên, đang hối hả củng cố vị thế ngự trị của mình với số đông đang sống trong sợ hãi, dốt nát và đói nghèo.

 

Lời kết, về hòa giải và hòa hợp dân tộc

Có lẽ tôi phải viết hàng trăm trang mới nói hết được những ý nghĩ của mình về nước Việt Nam và người Việt Nam vào giai đoạn lịch sử phức tạp này của dân tộc.

Qua câu chuyện cuộc đời của rất nhiều người mà tôi có dịp được biết đến về cuộc chiến, trước và sau đó, tôi thấy rằng có thể  nhiều triệu trang cần phải được viết về giai đoạn lịch sử này đã chưa được viết, hoặc bởi bị cấm đoán, hoặc bởi người ta đã lãng quên trong lo toan của cuộc sống đời thường...

Với Internet, người ta tiếp nhận được nhiều thông tin hơn, có cơ sở để có nhận thức và phán quyết của riêng mình về lịch sử. Đối với tôi, những nhận thức và phán quyết cá nhân đó có những chuyển biến theo thời gian mà dường như ngày càng gần với thực tại khách quan hơn, làm chính tôi phải ngỡ ngàng.

Ông Võ Văn Kiệt, một lãnh đạo cao cấp của nhà nước thống nhất đã có một phát biểu nổi tiếng  về ngày 30 tháng 4, tuy không được phổ biến rộng rãi: "Ngày có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn". Đó luôn là nhận thức của ông, từ 30 tháng 4 năm 1975, hay phải chăng chính ông sau này đã nhận được đủ thông tin hơn để thay đổi nhận thức và phán quyết của mình về lịch sử?

Tôi nghĩ, trên thực tế tâm trạng của những người Việt Nam khắp nơi trên thế giới vào ngày này là phức tạp, là sâu sắc hơn là nỗi buồn hay niềm vui.

Phía những người vui... Nếu chỉ là vui, phải chăng đó là những người không có nhiều mất mát trong cuộc chiến để mà suy ngẫm? Có lẽ còn hơn cả niềm vui, họ còn kiêu hãnh về chiến thắng mà mình đóng góp.

Với niềm tin là mình đóng góp xương máu cho nền độc lập, cho thống nhất đất nước, giải phóng dân tộc... làm sao mà người ta không kiêu hãnh?

Phía những người buồn... Nếu chỉ là buồn, phải chăng đó là những người không có nhiều mất mát trong cuộc chiến để mà suy ngẫm? Có lẽ còn hơn cả nỗi buồn, họ còn có mối hận thù vì bị đối xử tàn tệ, bị cướp đi cơ hội có một cuộc sống bình thường.

Bị đầy đọa, bị mất người thân yêu, người ta khó có thể vượt qua được hận thù?

Ở phía được coi là hận thù, tôi còn thấy sự tiếc nuối về thất bại của một lý tưởng độc lập, tự do khác, bị vùi dập và quên lãng...

Đất nước Việt Nam đã thống nhất 40 năm, nhưng dân tộc vẫn còn chia rẽ trong những con sóng ngầm. Hòa giải và hòa hợp dân tộc dường như còn xa vời, bất chấp tuyên bố của ai về điều ngược lại.

Hòa giải và hòa hợp dân tộc, tiếc thay, chưa bao giờ được đặt ra như một chương trình dài hạn của quốc gia, trong khi nó không thể được phát động từ cộng đồng dân sự trong hoàn cảnh chính trị - xã hội hiện nay của Việt Nam.

Trong khi đó, hòa giải chưa được đưa ra bởi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Các sáng kiến hòa giải từ bên ngoài Việt Nam ở bất kỳ một quốc gia nào, trớ  trêu thay, dường như cũng luôn được coi là hành động thù địch, làm phương hại đến quan hệ của Việt Nam với quốc gia đó.

Ngày 30 tháng 4 đối với tôi ngày càng trở thành một ngày đem đến cảm xúc phức tạp. Cảm xúc về sự yếu thế của một dân tộc tự chia sẽ, tự chấp nhận sống trong lừa dối, tự chấp nhận sống trong vô thức của ngạo mạn hay hận thù, với chính đồng tộc của mình.

Các thế hệ sẽ dần qua đi, để không còn có ai đáng cho ai ngạo nghễ về chiến thắng, không còn có ai đáng cho ai hận thù vì tội ác đã gây ra.

Nước Mỹ đã hòa giải với Việt Nam sau nhiều tội ác điên rồ. Hình ảnh cựu chiến binh Mỹ ôm hôn cựu chiến binh Bắc Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sự hòa giải. Họ đang tích cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh từ rà phá bom mìn, cứu giúp nạn nhân chiến tranh, xây dựng trường học, bệnh viện... Hai quốc gia Mỹ và Việt Nam đã trở thành những đối tác thân thiết về thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục. 

Nhưng chúng ta còn chưa thấy được hình ảnh cựu chiến binh miền Nam và miền Bắc ôm hôn nhau, dù đã có nhiều cựu chiến binh Nam Việt Nam định cư ở nước ngoài, theo tôi được biết, đã về nước tham gia làm từ thiện, tham gia xây dựng quê hương, trong lặng lẽ. Điều khác biệt của họ so với các cựu chiến binh Mỹ là, họ hành động với lòng yêu quê hương, đồng bào, chứ không phải từ mặc cảm tội lỗi trong chiến tranh.

Tôi ước mong ngày này trở thành "Ngày suy ngẫm" của dân tộc. Suy ngẫm về chiến thắng, về hận thù, về hòa giải, về khoan dung với đồng tộc của mình, vượt lên trên vô thức và định kiến vốn đã đầy ắp trong mỗi con người, vượt lên trên bất đồng chính kiến.

Suy ngẫm để cùng đối mặt với những sự thật phũ phàng, dù ở bất kỳ "bên" nào, để có được nhận thức và phán quyết tường minh về lịch sử cho mình và cho các thế hệ tương lai.

Suy ngẫm để cùng đưa ra được một chương trình nghị sự, từ ý chí của cộng đồng, chính trị và phi chính trị, về hòa giải và hòa hợp của người Việt Nam trên toàn Thế giới, như một dân tộc thống nhất, vĩ đại.

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 28-4-15

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Các nạn nhân của vụ án chính trị "Trần Huỳnh Duy Thức và đồng bọn" tố cáo cơ quan điều tra sử dụng nhục hình

Nguồn danluan

Dân Luận tổng hợp

DL - Theo tin Dân Luận vừa nhận được, ông Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung và Lê Công Định đã gửi đơn tới Tòa Án Nhân Dân Tối Cao vào ngày 9/1/2015 yêu cầu xem xét lại bản án sơ thẩm (ngày 20/1/2010) và phúc thẩm (ngày 11/5/2010) theo trình tự giám đốc thẩm. Lý do yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm là vì thủ tục tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc điều tra, truy tố và xét xử.


Từ trái qua phải: Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long và luật sư Lê Công Định tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20/1/2010. Ảnh: Reuteurs/VNA.

Các nạn nhân của vụ án chính trị này, bao gồm Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung đã bị Cơ quan an ninh điều tra sử dụng những biện pháp có tính chất nhục hình để bức cung bị nghiêm cấm bởi pháp luật, như:

- Bị gọi lên thẩm vấn liên tục, từ sáng sớm tới tối khuya, khiến tinh thần người bị thẩm vấn mệt mỏi;

- Bị giam trong phòng kín, chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi, vừa thiếu không khí, vừa thiếu nước sạch, khiến người bị giam ngột thở và căng thẳng;

- Bị đe dọa áp dụng mức hình phạt tử hình;

- Bị đe dọa đánh và bêu xấu chuyện riêng tư, và

- Bị gây áp lực về tình trạng gia đình.

Việc xét xử ở cả hai phiên tòa đều chỉ dựa trên hồ sơ do Cơ quan an ninh điều tra lập trong tình trạng sử dụng những biện pháp có tính chất nhục hình nói trên, các luật sư không được phép hỏi các bị cáo cùng một lúc để đối chiếu lời khai và xác minh sự việc, khiến việc điều tra xét hỏi ở phiên tòa phiến diện và không đầy đủ. Tòa chỉ dựa trên các nhận định và kết luận có sẵn trong các bản Kết luận điều tra của Cơ quan an ninh điều tra và Cáo trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, trong khi đó các nhận định và kết luận này chủ yếu dựa trên suy đoán và áp đặt, nhưng lại suy đoán theo hướng có tội, vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam và nền tảng của tất cả luật hình sự trên thế giới.

Các nạn nhân yêu cầu xem xét lại toàn bộ vụ án, và phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án sơ thẩm và phúc thẩm cho tới khi có kết quả cuối cùng.

Trước đó, ngày 2/1/2015 ông Trần Văn Huỳnh, phụ thân của Trần Huỳnh Duy Thức cũng đã gửi đơn tới nhiều nơi tố cáo việc Trần Huỳnh Duy Thức bị truy bức và nhục hình trong quá trình điều tra. Được biết ngày 17/10/2014 Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội đã chuyển đơn khiếu nại của ông Trần Huỳnh Duy Thức tới Tòa Án Nhân Dân Tối Cao yêu cầu xem xét lại bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm, với lý do ông đã thông báo với Hội đồng xét xử tại phiên tòa về việc ông bị bức cung và nhục hình trong quá trình điều tra nhưng không được các cấp Tòa xem xét, do đó kết quả ở các phiên tòa này không khách quan, không đúng pháp luật và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Tuy nhiên, cho đến nay đơn kêu oan và yêu cầu giám đốc thẩm của ông Trần Huỳnh Duy Thức vẫn chìm trong im lặng.

Xin nhắc lại vụ án "Trần Huỳnh Duy Thức và đồng bọn" với cáo buộc "lật đổ chính quyền nhân dân" vào năm 2009 đã làm chấn động dư luận trong nước và quốc tế. Việc chính quyền tuyên án nặng nề cho các bị cáo đã bị các quốc gia phương tây như Anh, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu lên tiếng phản đối. Bộ ngoại giao Anh ra thông cáo và bày tỏ quan ngại: "Không thể cầm tù bất kỳ ai vì người đó bày tỏ quan điểm của mình một cách hòa bình", còn đại diện của Hoa Kỳ ra thông cáo: "Chúng tôi cũng quan ngại về việc tiến hành phiên toà rõ ràng đã thiếu trình tự chuẩn mực, các bản án đã đi ngược lại với Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, việc kết tội này cũng đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng đối với cam kết của Việt Nam về nền pháp trị và cải cách". Các tổ chức nhân quyền quốc tế như Tổ chức Ân Xá Quốc Tế cũng bày tỏ quan ngại: "Những người này đáng ra không bao giờ nên bị bắt chứ đừng nói là bị buộc tội và nhận án tù, phiên tòa rõ ràng là sự nhạo báng công lý". Tổ chức Civil Rights Defenders cũng đã nhắc đến trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức tại buổi lễ trao giải "Người bảo vệ các quyền dân sự của năm 2015" vào đầu tháng 4 năm 2015.

Đơn yêu cầu giám đốc thẩm của Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung và Lê Công Định




Đơn tố cáo của ông Trần Văn Huỳnh


Thư chuyển tiếp của Ủy Ban Tư Pháp của Quốc Hội



RFA. Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4

Nguồn RFA

Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris
2015-04-27

Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống NhấtPhần âm thanh Tải xuống âm thanh

4892908803_c9f120b1b7.jpg
Từ trái sang phải: HT Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995.
Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com

Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4 tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế Hiệp hội.

Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến  Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.

Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.

Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.

Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.

Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ "Chết vinh hơn sống nhục". Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.

Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :

"Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu "Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật".

"Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.

"Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.

"Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.

"Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.

"Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu:

"Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án;

"Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết;

"Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương".

Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, "trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản" (…) "Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước". Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.

Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.

Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là "Thống nhất Phật giáo", thành lập "Hội Phật giáo Việt Nam" tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.

Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :

"Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam".

Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách "Thống nhất Phật giáo" nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :

thichquangdo11-400.jpg
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành Thông điệp Hãy bảo vệ Thăng Long nhân 1000 Năm Thăng Long

"Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.

Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.

Năm 1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :

"Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.

"Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.

"Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử".

Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; "cắt đứt chân tay" với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.

Vì thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị "Diễn biến Hoà bình" ở Hải phòng ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có "nguy cơ mất nước".

Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.

Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi "làm việc" và ra khẩu lệnh quản chế.

Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.

Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.

Đầu năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : "Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn".

Năm 2001 ngài công bố "Lời kêu gọi cho Dân chủ" với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.

Ngày 17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.

Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường  xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel, năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.

Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.

Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau:

"Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.

"Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.

"Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.

"Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội".

Nguyễn Hưng Quốc : Chiến tranh Việt Nam có thực sự cần thiết?

Nguồn VOA


28.04.2015

 

Liên quan đến biến cố 30 tháng Tư 1975, có một câu nói của một quan sát viên quốc tế mà tôi rất tâm đắc: "Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân" (There were no winners, only victims).


Nhưng tại sao lại không có người chiến thắng?


Trước hết, không còn hoài nghi gì nữa, người miền Nam chắc chắn là những người thua cuộc và từ đó, là những nạn nhân không những của chiến tranh mà còn của hoà bình với hàng trăm ngàn người bị bắt đi cải tạo, hàng triệu người liều mạng vượt biển để tìm tự do và hầu như tất cả đều sống trong cảnh vừa lầm than vừa bị áp bức.      

                                                                     

Mỹ cũng không phải là những kẻ chiến thắng. Nói cho đúng, họ thắng trong cuộc chiến tranh lạnh với khối xã hội chủ nghĩa bằng việc phân hoá Trung Quốc và Liên Xô đồng thời bằng cách vô hiệu hoá hiệu ứng liên hoàn, gắn liền với thuyết domino vốn là nguyên nhân chính khiến họ tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Về phương diện quân sự, họ không thắng không bại: họ đã rút quân ra khỏi Việt Nam mấy năm trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, về phương diện chính trị, họ đã thất bại trong nỗ lực bảo vệ một đồng minh là chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Sau đó, về phương diện tâm lý, họ là những nạn nhân với hội chứng Việt Nam, một ám ảnh đầy day dứt trong lương tâm của những người từng tham chiến. Đó là chưa kể hơn 58.000 người lính bỏ mình tại Việt Nam cũng như hàng mấy trăm ngàn người bị thương tật trở thành một gánh nặng trong xã hội Mỹ.


Thế còn miền Bắc?


Đương nhiên họ là những người thắng cuộc. Thắng về quân sự: đánh bại được quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thắng về chính trị: thống nhất được đất nước sau 20 năm chia cắt. Tuy nhiên, bên cạnh những chiến thắng ấy, họ cũng gánh chịu không ít thất bại. Những thất bại ấy làm cho chiến thắng của họ trở thành một tai hoạ cho mọi người.


Trước hết, như là hệ quả của việc chà đạp lên hiệp định Paris, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, Việt Nam phải gánh chịu sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trừ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa, họ không có một người bạn nào cả. Ngay cả với một nước đồng minh thân cận từng giúp đỡ họ cả mấy chục năm, Trung Quốc, cũng biến thành kẻ thù với hậu quả là, ngay sau chiến tranh Nam -Bắc chấm dứt, Việt Nam phải chịu đựng thêm hai cuộc chiến tranh mới: chiến tranh với Campuchia và chiến tranh với Trung Quốc.


Hệ quả của tất cả những điều vừa nêu là, về phương diện kinh tế, Việt Nam hoàn toàn kiệt quệ. Lạm phát tăng nhanh; nạn đói lúc nào cũng lởn vởn trước mắt mọi người. Trong nhiều năm, ngay cả lúa gạo, nguồn thực phẩm chính và cũng là điểm mạnh của miền Nam, cũng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Dân chúng phải thường xuyên ăn độn hoặc ăn bo bo để thế cơm. Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo khó và chậm phát triển nhất thế giới.


Về phương diện xã hội, hầu như mọi người đều bị lâm vào cảnh khốn cùng. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam và Bắc càng lúc càng sâu sắc. Sự thống nhất chỉ có trên phương diện chính trị và hành chính, nhưng về tâm lý, nhìn nhau, dân chúng giữa hai miền vẫn đầy những nghi kỵ và đố kỵ.

Về phương diện chính trị, dân chúng không còn chút tự do nào cả. Tự do tư tưởng: Không. Tự do ngôn luận: Không. Tự do cư trú và tự do đi lại: Không. Tất cả các quyền tự do căn bản của dân chủ, từ tự do hội họp đến tự do thành lập và tham gia vào đảng phái đều bị tước sạch.


Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố 30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân: Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân: họ phải xa lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng về đất nước cũ.


Nhưng nếu mọi người đều là nạn nhân, cuộc chiến tranh Nam Bắc vốn kéo dài hai mươi năm có thực sự cần thiết hay không?


Bộ máy tuyên truyền của miền Bắc trước năm 1975 cũng như trong cả nước sau năm 1975 nêu lên ba lý do chính tại sao miền Bắc phát động cuộc chiến tranh ấy: Một, để giải phóng miền Nam; hai, để phát triển chủ nghĩa xã hội sang nửa phần lãnh thổ còn chịu khổ nạn dưới ách "áp bức" của Mỹ và "nguỵ"; và ba, để đánh bại sự "xâm lược" của "đế quốc" Mỹ.


Xin nói về nguyên nhân thứ ba trước. Đó chỉ là một nguỵ biện. Việc Mỹ đổ cả nửa triệu quân vào miền Nam chỉ là để giúp miền Nam chống lại sự xâm lấn của miền Bắc. Như vậy, nó chỉ là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Nói cách khác, nếu miền Bắc không mưu toan đánh chiếm miền Nam, chả có lý do gì để Mỹ đổ quân vào miền Nam cả.


Về nguyên nhân thứ hai, người ta dễ dàng nhận thấy là hoàn toàn không chính đáng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản tại Đông Âu, hầu như ai cũng biết chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với áp bức và nghèo đói. Mở rộng chủ nghĩa xã hội từ miền Bắc sang miền Nam, do đó, thực chất là việc xuất cảng áp bức và nghèo đói. Đó là một tai hoạ.


Chỉ có nguyên nhân thứ nhất là cần phân tích kỹ. Trước hết, không ai có thể phủ nhận sự cần thiết của việc thống nhất đất nước, một di sản của tổ tiên từ ngàn đời trước. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử, của đạo lý và của tình cảm. Tuy nhiên, vấn đề là: sự thống nhất ấy có thể được thực hiện bằng cách nào và được trả bằng giá nào? Nó có cần thiết để cả nước phải trải qua hai chục năm chiến tranh tàn khốc với trên ba triệu người bị giết chết? Lịch sử cung cấp hai bài học chính:  Thứ nhất, Đông Đức và Tây Đức đã được thống nhất mà không cần phải trải qua cuộc chiến tranh nào cả. Thứ hai, Nam và Bắc Triều Tiên đến nay vẫn bị chia cắt. Nhưng sự chia cắt ấy được đền bù bằng mức phát triển cực nhanh và cực cao của Nam Triều Tiên. Sự thống nhất không sớm thì muộn, không bằng cách này thì bằng cách khác cũng sẽ xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, Đại Hàn cũng đã có một nền tảng kinh tế và chính trị vững chắc là Nam Triều Tiên (như trường hợp của Tây Đức và Đông Đức). Ở đây, sự chia cắt không có gì đáng phàn nàn hay ân hận cả.


Chúng ta tưởng tượng: nếu miền Bắc đừng phát động chiến tranh thì tình hình chính trị Việt Nam hiện nay sẽ ra sao? Thì tất cả những tai hoạ nêu lên ở phần đầu bài viết này sẽ không có. Thì cả hai miền sẽ có hoà bình và nhờ hoà bình, sẽ được phát triển nhanh chóng. Ngay cả khi hai miền Nam và Bắc chưa được thống nhất thì, tuy về phương diện tình cảm, vẫn là một nỗi nhức nhối, nhưng trên mọi phương diện khác, đó lại là một điều may mắn.


Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Nguyễn Thị Từ Huy : Di chúc Hồ Chí Minh - từ bản thứ nhất tới bản thứ hai (I)

Nguồn rfablog
Sun, 04/26/2015 - 18:21 — nguyenthituhuy

Trong bài này tôi tập trung vào hai vấn đề mà Hồ Chí Minh đã cắt bỏ và sửa đổi khi viết bản di chúc thứ hai, vào dịp sinh nhật năm 1968.

Như bài trước đã nói, văn bản cho phép nhận xét rằng di chúc năm 1968 là một di chúc mới, được viết lại hoàn toàn, viết lại từ phần mở đầu, có cấu trúc riêng, lô gic riêng. Đó là một văn bản mới, dùng để thay thế cho văn bản năm 1965, chứ không phải là để bổ sung cho văn bản năm 1965.

Chính trên cơ sở nhận xét này, trên quan niệm rằng đó là hai văn bản khác nhau, bản sau dùng để thay thế bản trước, mà tôi tiến hành các đối chiếu dưới đây. Ở đây tôi chỉ đề cập đến hai điểm, dĩ nhiên còn có những điểm khác.

  1. Cắt bỏ những nội dung liên quan đến Đảng trong di chúc 1968

Bản di chúc đánh máy năm 1965, sau phần mở đầu là phần nói về Đảng, với sự nhấn mạnh của Hồ Chí Minh, bằng cách gạch dưới cụm từ : « Trước hết nói về Đảng ». Phần nói về « việc riêng », tức là việc chôn cất, ông để ở đoạn cuối cùng của di chúc.

Như vậy có thể thấy, vào thời điểm năm 1965, Đảng là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh. Ưu tiên số một trong di chúc dành cho Đảng. Và ông Hồ viết các ý sau đây về Đảng : đầu tiên ông ca ngợi công lao của Đảng, sau đó là một số lời khuyên nhằm xây dựng Đảng vững mạnh trong tư cách là « đảng cầm quyền » : phải đoàn kết, thực hành dân chủ, phê bình và tự phê bình, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải trong sạch, và phải là người đầy tớ của nhân dân.

Tiếp đó, sau « Đảng ta » ông nói đến « Đoàn viên thanh niên ta ». Ông căn dặn phải chăm lo bồi dưỡng đoàn viên thanh niên thành thế hệ cách mạng, thành những người « vừa hồng vừa chuyên ». Tiếp theo, ông đề cập đến cuộc « kháng chiến chống Mỹ ». Và trước khi nói về « việc riêng », ông nói đến « Phong trào cộng sản thế giới », ông tin rằng Đảng cộng sản Việt Nam sẽ góp phần khôi phục khối đoàn kết giữa các đảng anh em quốc tế.

Trong bản di chúc viết tay năm 1968, Hồ Chí Minh bỏ hết toàn bộ những nội dung liên quan đến « Đảng ta », « Đoàn thanh niên ta », và « phong trào cộng sản thế giới ». Xin lưu ý độc giả là ông Hồ bỏ hoàn toàn những nội dung này.

Thay vào đó, liên quan đến đảng, là mấy câu ngắn ngủi nhằm nhấn mạnh « việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng ».

 Điều gì khiến Hồ Chí Minh, trong vòng ba năm từ 1965 đến 1968, có những thay đổi quan trọng trong đánh giá về Đảng, khiến ông đi từ chỗ ca ngợi Đảng tới chỗ thấy rằng Đảng phải được chỉnh đốn lại ?

Việc chỉnh đốn Đảng trở thành việc quan trọng nhất, tại sao ? Hoặc phải đặt câu hỏi theo cách khác : vì sao phải chỉnh đốn Đảng ?

Ta cũng nhận thấy rằng, trong bản di chúc thứ nhất, Hồ Chí Minh chỉ nói đến Đảng, không một lời nào về Chính phủ. Trái lại, trong di chúc thứ hai, cụm từ « Đảng và Chính phủ » được lặp lại nhiều lần. Đảng không còn giữ vị thế độc tôn như trong bản di chúc thứ nhất nữa. Phải chăng trong quan niệm của ông về quyền lực chính trị đã có sự thay đổi : Đảng và Chính phủ là hai thực thể phân biệt và có vai trò ngang nhau trong cán cân quyền lực ?

Ông Hồ cũng xóa bỏ hoàn toàn câu « Đảng ta là đảng cầm quyền ». Ông hoàn toàn không kể đến công lao của Đảng, ông chỉ nói những việc Đảng phải làm đối với xã hội và đối với người dân. Như vậy, phải chăng, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh năm 1968, đảng cộng sản không còn được hình dung như là đảng cầm quyền tuyệt đối nữa ? Phải chăng, ông nghĩ rằng, việc chia sẻ quyền lực giữa đảng và chính phủ sẽ giúp giảm bớt các tệ nạn trong đảng ? Các tệ nạn mà ông phải nhìn thấy rất rõ, đến mức điều đầu tiên ông nói về đảng trong di chúc lần này là « chỉnh đốn đảng » ?

Một điểm khác cũng hết sức quan trọng : trong văn bản 1968, Hồ Chí Minh không hề nhắc đến « đạo đức cách mạng ». Đạo đức cách mạng là thứ mà ông nhấn mạnh nhiều lần trong di chúc thứ nhất, nhưng lại đã bị ông loại bỏ hoàn toàn khi viết lại bản di chúc lần thứ hai. Phải chăng ông đã nhìn thấy tính chất nguy hiểm của cái gọi là « đạo đức cách mạng » và không muốn biến nó thành sợi dây thòng lọng thắt cổ các thế hệ tương lai ?

Trong khi bỏ đi toàn bộ những nội dung liên quan đến Đảng, Đoàn và phong trào cộng sản thế giới, thì ưu tiên số một của ông Hồ trong bản di chúc thứ hai là : « Đầu tiên là công việc đối với con người ». Chữ « con người » được nhấn mạnh bằng cách gạch dưới, trong bản viết tay của ông. « Con người » là ai ?

Con người, theo những gì mà bản di chúc thứ hai kể đến, đó là : thương binh, liệt sĩ, thân nhân của họ, thanh niên trong các lực lượng vũ trang nhân dân, phụ nữ, cả các thành phần như : « trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… », và dĩ nhiên không thể thiếu « nhân dân », ông đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho dân. Và… tất cả những nội dung liên quan đến « con người » đều bị Bộ Chính trị cắt bỏ hết trong bản « di chúc » mà họ đem ra công bố, đồng thời, xin nhắc lại, họ cho công bố những gì mà Hồ Chí Minh đã tự cắt bỏ.

Ông Hồ của năm 1968 không còn tin rằng « các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại », cũng không còn tham vọng « Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em », không còn mong đào tạo thanh niên « vừa hồng vừa chuyên », như ông đã từng bộc lộ vào năm 1965. Và như trên đã nói, ông Hồ không còn nói chút nào về công lao của Đảng, trái lại ông nhấn mạnh vào việc cần phải chỉnh đốn Đảng. Những thay đổi này của Hồ Chí Minh là do « tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi », như ông đã viết.

Chúng ta biết tình hình thế giới : năm 1968 là năm của mùa xuân Praha, năm của sự kiện « Tháng 5 năm 68 » tại Pháp. Năm 1968 cũng là thời điểm mà cách mạng văn hóa đẩy Trung Quốc vào tình trạng hỗn loạn dưới sự tung hoành của hồng vệ binh. Còn tình hình Việt Nam : cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân và thảm sát tại Huế. Xin nhắc lại : tôi không phân tích các sự kiện lịch sử. Tôi chỉ liệt kê một số sự kiện quan trọng của lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam ở thời điểm 1968 mà theo tôi có thể có tác động tới sự thay đổi được thể hiện trong di chúc của Hồ Chí Minh.

Một vấn đề khác cũng cần phải quan tâm là : Hồ Chí Minh của năm 1969 nghĩ gì về Đảng ? Ngoài mấy câu mở đầu, ta không còn được biết ông viết gì trong di chúc năm 1969, lúc mà, như ông tự nhận : « tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt ». Ông đã viết gì vào dịp sinh nhật 79 tuổi ? Đã có những thay đổi nào trong suy nghĩ và nguyện vọng của ông ? Những điều cuối cùng mà ông muốn để lại là gì ? Phải chăng chính vì điều đó mà ông đã bị phản bội và bản di chúc chính thức đã biến mất ? Không rõ chúng ta còn cơ hội để có được câu trả lời rõ ràng và thuyết phục không ? Điều này tùy thuộc vào giới sử gia của nước nhà.

Paris, 26/4/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Nguyễn thị Cỏ May : 30/04 - Ân hận một thời Trường Sơn

Post lại từ blog huynhngocchenh
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
Tới nay, sau 40 năm, vẫn còn không ít người Việt Nam, cả ở hải ngoại, dân HO nữa, khi nhắc lại một cái mốc thời gian, không thấy ngại dùng tiếng " giải phóng " hay gọi nhà cầm quyền cộng sản ở Việt Nam là  "cách mạng" . Thậm chí có khi tự nhận mình là "ngụy" không hề mặc cảm. Thế mới thấy tác dụng ghê gớm của sức mạnh ngôn ngữ và ảnh hưởng của tuyên truyền chánh trị.

Nhưng "giải phóng" và " cách mạng", chỉ ít lâu sau ngày 30/04, bị ngay thực tế xã hội định nghĩa lại chính xác, đúng nghĩa thật của nó.


Hơn ai hết, chính lớp tuổi trẻ ở Miền Bắc bị đảng cộng sản lừa vượt Trường Sơn vào Nam làm chiến tranh giải phóng định nghĩa lại "giải phóng" và "cách mạng" bằng thực tề cuộc sống của bản thân mình sau ngày 30/04. Chị Trung Sĩ, tựa và nhơn vật trong truyện ngắn của nhà văn Bùi Ngọc Tấn là điển hình để phơi bày bản chất cộng sản khi nắm quyền.


Vài hàng về nhà văn Bùi Ngọc Tấn


Cỏ May viết vài hàng về tác giả truyện Trung Sĩ để tưởng niệm nhà văn mới qua đời ngày 18/12/2014, sau những năm tháng chống chọi với bệnh ung thư đã ghé qua thăm thành phố nhỏ Roissy en Brie ở ngoại ô Paris cùng với bà Hoàng Minh Chính nhân chuyến hai người đi một vòng ngắn Âu châu, trước khi Ông Hoàng Minh Chính đi qua Mỹ chữa bịnh.

Hôm ấy, Bùi Ngọc Tấn ít nói. Người rất khiêm tốn và dễ gây thiện cảm.

Ông vào làng báo khi theo đội Thanh niên Xung phong tiếp quản Hà Nội tháng 10/0954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền Phong. Ông viết văn dưới tên khác để tránh cái lệnh cấm nhà báo không được viết truyện.

Cái dễ thương ở ông là viết, muốn được viết phải né tránh nhưng vẫn giữ khoảng cách với hàng ngũ "nhà văn cung đình".

Ông xin chuyển về quê quán Hải phòng, với "ước mong thâm nhập công nông để viết được tác phẩm của đời mình".

Tháng 11/1968, Bùi Ngọc Tấn bị ở tù về tội "tuyên truyền phản cách mạng" trong vụ án "nhóm xét lại chống đảng, làm tay sai cho nước ngoài". Và tác phẩm dự định viết chưa viết được. Bùi Ngọc Tấn chưa bao giờ là đảng viên đảng cộng sản ở Hà Nội. Ông cũng chưa hề biết cái tội mà ông bị tù.

Đến khi Hiệp định Paris kết thúc chiến tranh ở Việt Nam ký kết, ông được nhà cầm quyền ở Hà Nội trả tự do. Nhưng ra tù, ông lại rùng mình ghê sợ hơn lúc ở tù:

"Ông làm nghề bốc vác, kéo xe bò để sống qua ngày . …Ông phát hiện một điều: tất cả những người trên đường không một ai cười. Giống nhau . Xam xám . Đăm chìêu. Đồng phục quần áo. Đồng phục mặt người ….

Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê quá" . Người bạn của ông bảo "Cuộc sống này gần với cuộc sống loài vật . Đâu phải cuộc sống con người".

Bùi Ngọc Tấn vất vả tận cùng để kiếm cơm áo nhưng không khổ bằng bị công an theo dõi, cách ly, dọa nạt, tra hỏi dưới nhiều hình thức mọi lúc khi cần, làm cho ông bị ám ảnh như có một người vô hình bám sát ông, cả khi ngủ.

Năm 2012, tại Paris, truyện "Biển và Chim bói cá" của Bùi Ngọc Tấn được Festival Livre et Mer phát giải thưởng. Nhân dịp này, Ông François Bourgeon, kịch sĩ và nhà văn, người sáng lập giải thưởng, nói về Bùi Ngọc Tấn:
" Từ khi lập ra giải thưởng này, tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn đã làm chúng tôi thỏa mãn . Tác giả là người Việt nam . Ông tặng cho chúng ta một tác phẩm nhân văn …Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do …" (Bùi Ngọc Tấn, Hậu Chuyện Kể Năm 2000 , NXB Tiếng Quê Hương , Virginia , USA 2004) .


Trung Sĩ Lan Anh


Trong truyện này, Bùi Ngọc Tấn viết về cuộc đời của Trung Sĩ Lan Anh, một phụ nữ trẻ đẹp ở Hà Nội, theo lệnh đảng cộng sản, vượt Trường Sơn vào Miền Nam làm chiến tranh cách mạng để giải phóng đồng bào Miền Nam thoát khỏi Mỹ Ngụy kìm kẹp, không đủ cơm ăn, áo mặc . Sau ngày 30/04, hết chiến tranh, đất nước thống nhứt dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Lan Anh tìm được việc làm " bốc dỡ cá" . Vìệc làm vất vả vì phải làm việc trong hầm lạnh và nặng nhọc. Nhưng có việc làm vẫn hơn thất nghiệp như bao nhiêu người khác.

Làm việc được hơn bảy năm, cơ sở đánh cá dẹp tiệm vì tàu hư, biển hết cá. Cơ quan giải tán. Mọi người từ sếp tới công nhân đều được vứt hết ra vỉa hè, tự do đi tìm việc làm khác.

Lan Anh tìm được vìệc làm trong một nhà hàng ăn sang trọng. Làm tiếp viên (làm điếm trá hình).

Một hôm, Lan Anh gặp lại người bạn thân cũ lúc ở Trường Sơn. Anh này làm tài xế đưa sếp và khách của sếp tới đây để đãi đằng theo tập quán làm ăn kinh doanh của thời mở cửa. Hai người bạn cũ xa cách nhau lâu ngày, nay tình cờ gặp lại nên mừng rỡ vô cùng. Lan Anh tự nhiên nắm tay người bạn. Và cũng một phần do phản ứng tự nhiên của nghề nghiệp khi tiếp khách. Nhưng, Lan Anh vội buông tay bạn ra, thụt lùi lại và biến mất khi bạn kêu "Trung Sĩ", tên gọi thân mật lúc ở Trường Sơn và cũng là cấp bực trong quân đội nhân dân của Lan Anh.

Vài phút sau, Lan Anh trở ra với áo đầm mỏng, không tay, tiến tới người bạn cũ: "Khi nảy, anh gọi em Trung Sĩ làm cho em xấu hổ quá. Em phải đi thay đồ, bỏ chiếc quần bò đi để trông cho hết ngố".

Từ lâu lắm rồi, không có ai gọi Lan Anh theo cấp bực trong quân đội. Nay bạn cũ gọi làm cho nàng giựt mình, nghĩ cách ăn mặc giống như bộ đội cách mạng của mình trước đây là ngố, là nhà quê thô kệch. Xấu hổ lắm.

Cũng chính anh bạn này, ngày Sài gòn được "giải phóng", đã chở Lan Anh và các cô bạn của Lan Anh từ Trường Sơn ra trên một đoạn đường dài ra quốc lộ.

Ngồi trên xe, mọi người trố mặt nhìn nhà cửa, xe cộ ngược xuôi, …Các cô y tá, hộ lý ấy như bay lên. Không phải họ đang ngồi trên xe nữa, mà bay lên tận trời xanh kia kìa. Ai mà không thấy ngay trước mắt mình, cả một thiên đàng đang mở cửa đón chào.

Các cô xúm lại, ùa vào một "cửa hàng mỹ phẩm", thật ra chỉ là một quán tạp hóa bên đường, bày bán đủ thứ từ bánh kẹo, quần áo may sẵn, ít son phấn, nước hoa rẻ tiền, xà bông thơm của Mỹ như Cadum, Camay, Dove, quần áo lót phụ nữ, … Mắt các cô sáng lên. Lần đầu tiên từ ngày rời Hà Nội, nay mọi người mới trông thấy những thứ lộng lẫy, sang trọng đó. Trước đây, những thứ này, trong mơ, cũng không thể hình dung ra được nữa.

Giờ đây, các cô có ai còn đủ can đảm, còn đủ phẩm chất cách mạng để nhớ lại những ngày ở Trường Sơn, săn sóc thương binh, chôn cất bao nhiêu đồng chí hi sinh cho chiến tranh giải phóng đồng bào Miền Nam?


Làm nghề hoàn toàn lương thiện, trong sạch


Lan Anh làm tiếp viên trong một nhà hàng sang. Cùng với một nhóm trẻ mười tám hai mươi. Lan Anh lớn tuổi, đáng má của nhóm đồng nghiệp nhưng cô nàng vẫn kiếm tiền được. Ngoài khách hàng là cán bộ cao cấp nhiều tiền tới chọn tìếp viên trẻ, còn có ít khách hàng lớn tuổi. Những người này chọn Lan Anh vì các cô trẻ đáng tuổi cháu, có gọi " anh " ngọt xớt, có âu yếm, cũng chỉ gượng ép, không thể tự nhiên được. Vả lại, tuổi ngoài bốn mươi nhưng Lan Anh còn giữ được gương mặt dễ coi và thân mình khá quyến rũ. Cô vẫn thường ân hận phải chi còn được cái tuổi hai mươi như lúc ở Trường Sơn!

Biết người bạn cũ nghĩ xa xôi về mình, Lan Anh nắm tay bạn và nói, giọng chắc nịch:

"Anh muốn nghĩ về em thế nào thì nghĩ . Em không làm việc gì xấu . Em không ăn cắp, không tham nhũng, không lấy tiền của nhân dân về xây biệt thự . Em chỉ đem bản thân của em ra kiếm sống. Nếu em chết đi ở Trường Sơn như bao nhiêu người khác thì cũng chẳng còn cái thân này để nay đem ra bán kiếm sống và nuôi con ăn học …" .


Như nhau cả


Lan Anh hỏi người bạn tuần tới có đi về Hà nội không để xin quá giang cùng xe . Anh bạn của Lan Anh cho biết có đi, chở ông Giám đốc đi Hà Nội nhưng ông này rất kỵ xe chở phụ nữ và ông đi cùng xe với phụ nữ . Lan Anh không tin có người làm Giám đốc mà lại như vậy. Bạn của cô phải giải thích thêm. Ông này người gầy gò, khắc khổ. Nói sa sả. Mắng chửi cán bộ vuốt mặt không kịp. Không bia rượu, không thuốc lá, không nhà hàng. Nhứt là không gái, không biết tiếp viên là gì. Tiếp khách, là chỉ cử sếp phó đi. Lúc nào cũng nói đến công việc, nói đến xí nghiệp. Bạn của Lan Anh cố giải thích để Lan Anh hiểu mà đừng nài nỉ xin đi theo xe về Hà Nội. Nhưng Lan Anh, với kinh nghiệm sống dày dặn, không nghe và còn lớn tiếng trả lời:
"Chúng nó như nhau cả . Như nhau …. . Những thứ bề ngoài như vậy mới là cực gian, cực ác!" .

Lan Anh nói với bạn là cô ta ly dị vì chồng nghiện ngập, …Nhưng thật ra, Lan Anh đã thôi chồng vì chọn nghề này mà chồng không đồng ý.

Sau khi xí nghiệp cá dẹp tiệm vì biển hết cá, Lan Anh phải xoay sở nuôi gia đình 4 miệng ăn, con trai đi học khá tốn kém.

Với người mẹ, đứa con là tài sản vô giá. Không có thứ gì có giá trị vượt qua đứa con được. Lan Anh làm tiếp viên nuôi bà mẹ già, đứa con trai đi học. Ai bảo là xấu?
Lan Anh là tiếp viên, xã hội thừa nhận. Nhưng những cán bộ đảng viên không phải là thứ "tiếp viên" theo một ý nghĩa nào đó sao?

Người đọc truyện Trung Sĩ của Bùi Ngọc Tấn (Truyện ngắn, NXB Hải Phòng 2003, các trang 227-246), ai có thể không suy nghĩ thêm lời nhận xét: "Trong mỗi chúng ta ít nhiều đều mang chất tiếp viên".

Chúng ta ở đây, tức cán bộ và đảng viên ở Vìệt Nam, những người làm cách mạng giải phóng thân phận con người thoát khỏi đời sống bị giai cấp cường hào ác bá, tư sản bóc lột, có thừa tiền cần hưởng thụ, đều mang ít nhiều chất "tiếp viên"?

Bùi Tín : Về ngày 30/4: Chỗ đứng của Đảng CS phải là vành móng ngựa

Nguồn VOA

27.04.2015

Chiến cuộc hơn 30 năm trên đất nước Việt Nam đã được nhận định, tranh luận, mổ xẻ trong một thời gian dài, đến nay những ý kiến trái ngược nhau vẫn còn tồn tại dai dẳng.

Một bên cho đó là "sự nghiệp chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc VN", một dân tộc anh hùng đã đánh bại phát xít Nhật, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ thuộc ba lục địa Á, Âu, Mỹ, đánh bại hoàn toàn «ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn, tay sai đế quốc Mỹ», thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên «xã hội chủ nghĩa cho cả nước». Công đầu thuộc về «Đảng CSVN quang vinh». Do đó ngày 30/4/1975 là ngày «lịch sử oai hùng» của dân tộc. Năm nay kỷ niệm 40 năm ngày «chiến thắng vẻ vang» đó, Bộ Chính trị đảng CS quyết định tổ chức kỷ niệm long trọng trong cả nước, đặc biệt là ở các thành phố lớn: Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Hải Phòng, Cần Thơ…có mit-tinh, duyệt binh, bắn pháo hoa, mở hội liên hoan quần chúng.

Ngược lại, một bộ phận không ít người Việt coi đây là ngày «quốc hận».

Suốt 40 năm nay, tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu, đắn đo, đọc không biết bao nhiêu tài liệu, tranh luận với hàng trăm bạn bè trong và ngoài nước, với gần một trăm nhà báo nước ngoài - Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản,Trung Quốc - để rồi cố gắng độc lập suy nghĩ bằng đầu óc tỉnh táo của chính mình, không theo đuôi số đông, không dựa dẫm, lập dị, chỉ lấy sự thật và lẽ phải làm mục tiêu.

Từ đó tôi hoàn toàn tự tin để kết luận trong dịp này là trong 70 năm qua Đảng CSVN đã liên tiếp phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác:

- đã chọn sai lầm học thuyết chính trị Mác – Lênin và chế độ toàn trị độc đảng cực kỳ tệ hại,

- đã phạm tôị ác chồng chất trong việc chủ trương bạo lực vũ trang, chủ động gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn với hàng mấy triệu sinh mạng nhân dân, chủ yếu là thanh niên ưu tú thuộc cả 2 bên chiến tuyến,

- đã tàn phá vô kể sức lao động và của cải xã hội trong thời gian dài, trong các cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, cải tạo công thương nghiệp trong cả nước, đã vi phạm những hiệp định đã long trọng ký kết tại các Hội nghị Geneve năm 1954 và Hội nghị Paris năm 1973, đặc biệt là các điều khoản về «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam», «không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực», «thực hiện hòa hợp và hòa giải dân tộc», «không trả thù những người đã hợp tác với đối phương».

 - đã đày đọa, trả thù hàng chục vạn viên chức và sỹ quan VN Cộng hòa trong hệ thống nhà tù mang nhãn hiệu «các lớp học cải tạo» để đánh lừa dư luận thế giói..

Có thể nói trên đây là những tội ác hiển nhiên có suy tính theo hệ thống, không thể chối cãi của đảng CSVN, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, bằng chứng là các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 15 khóa II đầu năm 1959 chủ trương đồng khởi và khởi nghĩa ở miền Nam, xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam qua đất Lào và Campuchia, rồi Nghị quyết Trung ương 9 khóa III cuối năm 1963 chủ trương tăng cường chi viện quân sự quy mô của miền Bắc cho miền Nam, các quyết định về chiến lược của Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 dốc toàn bộ lực lượng để giải phóng miền Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Các văn kiện trên chứng tỏ Bộ Chính trị đảng CSVN đã sớm xé bỏ triệt để các Hiệp định Geneve và Paris, công khai vi phạm sự cam kết và phản bội chữ ký của chính mình, chà đạp thô bạo «quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN được tự do lựa chọn chế độ của mình», 2 lần gây nên thảm họa di cư quy mô lớn năm 1954-1955 từ Bắc vào Nam và thảm kịch thuyền nhân từ 1975 đến 1980, với biết bao sinh mạng bị biển cả cuốn đi, bộ máy công an còn thu cơ man nào là vàng của hàng triệu người vượt biên.

Tất cả những điều kể trên là tội ác đối với toàn dân tộc, đặc biệt là đối với nhân dân miền Nam Việt Nam đã bị thôn tính bằng vũ lực công khai, phi pháp, trắng trợn, cũng là tội ác chống nhân loại, vi phạm Hiến chương của Liên Hiệp Quốc chủ trương quyền Tự quyết của các dân tộc là bất khả xâm phạm. Do đó ngày 30/4 có thể gọi là ngày Đen Tối , ngày Tội Ác, từ đó cũng là ngày Ô Nhục của Đảng CSVN.

Nếu như nhân dân Việt Nam được sống dưới một chế độ pháp quyền đầy đủ thì Bộ Chính trị đảng CSVN tự nhận là cơ quan lãnh đạo thường xuyên, liên tục và toàn diện đất nước phải bị đưa ra vành móng ngựa của Tòa án Nhân dân và của Tòa án Quốc tế về những Tội ác chồng chất trên đây.

Nhân dân Việt Nam vào thời điểm hiện tại số đông không còn ngu ngơ để đảng CS lừa dối bằng những thủ đoạn gian manh như Mặt trận Tổ Quốc (do chính đảng CS dựng lên), Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời (cũng do đảng CS tổ chức), tự giải tán đảng CS Đông dương tháng 11/1945 (thật ra chỉ là rút vào bí mật), đổi tên đảng Lao động VN từ 1952 đến 1976 (vẫn là bản chất Cộng sản, luôn theo lệnh từ Moscow), đế quốc Mỹ xâm lược (là một kiểu vu khống), ngụy quân ngụy quyền (cũng là vu cáo bỉ ổi vì chính CS mới tự nguyện làm ngụy quân ngụy quyền cho CS Quốc tế). Họ cho trên đây là những nét sáng tạo cao tay, thật ra là trò bịp rẻ tiền.

Trống kèn ầm ỹ, pháo hoa khắp nơi, duyệt binh hoành tráng chỉ còn là màn khói mỏng che đậy những sai lầm và tội ác chồng chất cùng những bất công kinh khủng mà xã hội không còn có thể chịu đựng nổi.

Đến nay mọi sự sai lầm, giả dối, lừa lọc, mỵ dân của các khóa Bộ Chính trị đều đã và đang phá sản, nhiều đảng viên CS có công tâm, trọng danh dự đã lên tiếng đòi đảng phải từ bỏ cái tên CS tội lỗi, thực hiện chế độ đa nguyên để có kiểm tra, tranh đua, thay thế cùng với các đảng khác trên cơ sở bình đẳng, tạ tội với toàn dân. Nếu Bộ Chính trị vẫn cứ chủ quan ngang ngược, họ sẽ vấp phải sự phẫn nộ của toàn dân được thế giới dân chủ hỗ trợ, họ sẽ ngày càng bị cô lập, và họ sẽ không trách khỏi là những kẻ phạm tội ác bị toàn dân hỏi tội trước vành móng ngựa của luật pháp công minh.

Hồ sơ tội phạm đã đầy đủ đến thừa thãi.

Tôi xin thách nhân dịp này, Học viện chính trị Mác – Lenin mang tên Hồ Chí Minh tranh luận tay đôi với tôi về Hồ sơ Tội ác của đảng CSVN tôi phác họa trên đây. Tôi là một nhà báo tự do đang sống ở nước ngoài, từng ở trong đảng CS 44 năm, am hiểu không ít về chế độ CS, cuộc tranh luận công khai này sẽ lấy dư luận xã hội làm trọng tài.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

RFA. Diễn đàn Kinh tế mùa xuân: “Đổi mới hay là chết”

Nguồn RFA

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Diễn đàn Kinh tế mùa xuân: "Đổi mới hay là chết"Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

ddktmx2015-622.jpg
Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 diễn ra hai ngày 21 và 22 tháng 4 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An.
Courtesy chinhphu.vn

Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 diễn ra hai ngày 21 và 22 tháng 4 tại thành phố Vinh tỉnh Nghệ An đã gây sôi nôi dư luận báo chí, khi nhiều đề nghị cải cách đã có sự đụng chạm tới Hiến pháp Việt Nam hiện hành. Thí dụ như cần thay đổi khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trên thực tế Kinh tế Nhà nước không phải là chủ đạo nền kinh tế.

Cải cách thể chế sẽ vướng Hiến pháp?

Theo tường thuật của Thời báo kinh tế Việt Nam, TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã quyết liệt bảo vệ quan điểm: "không chuyển sang kinh tế thị trường thì không giải quyết được gì cả."

Chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh, vừa trở về Hà Nội từ thành phố Vinh đã trả lời câu hỏi của chúng tôi về sự kiện những đề xuất cải cách thể chế sẽ vướng Hiến pháp hiện hành. Ông nói:

Không thể cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn không thể thực thi nền kinh tế thị trường đầy đủ, theo những gì mà Việt Nam đang đề nghị quốc tế đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên minh Châu âu linh hoạt về nền kinh tế thị trường đầy đủ để Việt Nam có thể tham gia vào TPP. 
-TS Phạm Chí Dũng

"Trong tất cả ý kiến thảo luận đó thì đều khẳng định và nhấn mạnh là cần tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước và phải có Luật về cổ phần hóa, phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ về thể chế và cắt giảm giấy phép con không còn có hiệu lực từ 1/7 và phải qui định rõ trách nhiệm giải trình của Bộ trưởng; phải chống tham nhũng và đã nêu lên các tác động cụ thể của việc chống tham nhũng. Còn về lâu về dài các việc đó có dẫn đến phải sửa đổi bổ sung Hiến pháp hay không thì việc đó sẽ còn chờ xem xét. Tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân chúng tôi không đặt vấn đề gì về việc sửa đổi Hiến pháp cả."

Báo mạng vneconomy.vn dẫn lời TS Nguyễn Đình Cung Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 nói rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm được sử dụng thường xuyên, nhưng nội hàm của khái niệm chưa rõ, chưa thống nhất và những gì được giải thích liên quan đến khái niệm này không còn phù hợp. TS Cung đề nghị đổi mới khái niệm đó như sau: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, trong đó, Nhà nước và thị trường là hai yếu tố không thể thiếu, phối hợp, cộng sinh và bổ sung cho nhau hướng đến thị trường hoàn hảo."

Nhận định về đề xuất của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, TS Phạm Chí Dũng nhà phản biện xã hội dân sự độc lập phát biểu từ Saigon:

le-dang-doanh-400.jpg
Chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh, ảnh minh họa. Courtesy photo.

"Tôi thấy là ông Nguyễn Đình Cung dù có đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường, nhưng ông vẫn đưa ra một định nghĩa mà theo ông là đầy đủ hơn trong đó vẫn giữ nguyên khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì và bao gồm những nội hàm như thế nào. Có nghĩa là không cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa mà không cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì không có ý nghĩa gì về kinh tế thị trường; cũng như không có ý nghĩa gì đối với thành phần kinh tế tư nhân mà người ta vẫn xem là động lực chính hiện nay. Vấn đề này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đụng chạm tới Hiến pháp, đặc biệt là vấn đề Điều 4 Hiến pháp vai trò độc đảng. Cho nên là không thể cắt đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn không thể thực thi nền kinh tế thị trường đầy đủ, theo những gì mà Việt Nam đang đề nghị quốc tế đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên minh Châu âu linh hoạt về nền kinh tế thị trường đầy đủ để Việt Nam có thể tham gia vào TPP…"

Khi ghi nhận những đề xuất vừa nêu, người đọc báo nhớ lại phát biểu của ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư tại Học viện Chính trị Quốc gia vào năm 2014 là làm gì có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nghiên cứu và đi tìm. Phát biểu của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh được nhiều báo đưa tin trong đó có SaigonTimes Online.

Chính phủ đã thực sự lắng nghe?

Từ khi Ủy ban Kinh tế Quốc hội khởi sự tổ chức các Diễn đàn Kinh tế vào dịp Xuân-Thu mỗi năm, rất nhiều ý kiến đột phá về cải cách thể chế đã được đề xuất. Nhưng trên báo chí không thấy đưa tin là Chính phủ đã thực sự lắng nghe và ứng dụng được những ý kiến nào. TS Lê Đăng Doanh nhận định:

"Tôi nghĩ rằng những biện pháp thiết thực có thể làm được sẽ được xem xét. Thí dụ như những biện pháp cắt giảm giấy phép con, những biện pháp giảm phiền hà thì Chính phủ đã cam kết sẽ đẩy mạnh việc thực hiện như qua Nghị quyết 19 ngày 12/3/2015, Chính phủ cam kết sẽ cố gắng đạt mức của các nước ASEAN-6 về các chỉ tiêu về nộp thuế v..v.. Thế thì tôi nghĩ bây giờ hãy cứ thực hiện một số tiến bộ có thể đạt được, còn các việc khác có lẽ là sẽ xem xét và từng bước sẽ được thực hiện. Tôi không nghĩ là cùng một lúc có thể có sự thay đổi đột ngột trong hoàn cảnh hiện nay."

Cùng về câu hỏi đánh giá thế nào về sự lắng nghe, tiếp thu và ứng dụng các ý kiến đề xuất để giúp cho dân giàu nước mạnh, được các chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015, cũng như các Diễn đàn trước đó. Nhà phản biện độc lập TS Phạm Chí Dũng nhận định:

Tôi nghĩ bây giờ hãy cứ thực hiện một số tiến bộ có thể đạt được, còn các việc khác có lẽ là sẽ xem xét và từng bước sẽ được thực hiện. Tôi không nghĩ là cùng một lúc có thể có sự thay đổi đột ngột trong hoàn cảnh hiện nay. 
-TS Lê Đăng Doanh

"Những tranh luận này thực ra không mới, tại vì những Đại hội Đảng trước bao giờ cũng có thảo luận và tranh luận thậm chí cũng đã đặt ra việc bỏ vai trò động lực chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhưng mà cuối cùng vẫn không bỏ. Do người ta bảo thủ đến mức như vậy nên cho tới nay không có gì thay đổi. Thực tình mà nói tôi không hy vọng là Dự thảo báo cáo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 sẽ được thay đổi về những định hướng và những chính sách cơ bản. Sẽ khó mà có chuyện đó, do vậy ở Việt Nam vẫn diễn ra một cảnh nghịch lý vô cùng tận là sự chênh biệt rất lớn giữa lý thuyết và thực tế. Các nhà lý thuyết và kinh tế cứ việc nói còn thực tế diễn biến ngược lại và cho đến khi nào mà thực tế bùng nổ như là cuộc đình công của 90 ngàn công nhân ở Pouyuen vừa rồi, thì người ta mới chợt ngộ ra một điều rằng tất cả đều sống trong một lâu đài trên cát."

Tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 tổ chức tại Vinh, kinh tế gia Lê Đăng Doanh đã trình bày tham luận "Môi trường đầu tư kinh doanh và tác động của tham nhũng và chi phí phi chính thức. Theo VnExpress đây là bài tham luận gây chú ý ngay phiên khai mạc Diễn đàn.

TS Lê Đăng Doanh nói thêm về tham luận của ông.

"Tham nhũng sẽ dẫn đến những méo mó trong việc phân bổ tiền vốn, không phải phân bổ tiền vốn theo hiệu quả mà phân bổ tiền vốn theo mức độ đút lót và mức độ ưu đãi có thể đạt được. Thứ hai nữa, việc đút lót làm bóp méo tất cả khung pháp luật từ khung pháp luật bảo vệ môi trường, khung pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm rồi thì tất cả khung pháp luật về thi tuyển về bằng cấp có thể bị bóp méo và là vì do tham nhũng. Một điểm nữa là với môi trường tham nhũng như thế những doanh nghiệp kém mà tham nhũng đút lót lại có thể được hưởng lợi và nó làm nản lòng các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Từ đấy dẫn tới năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế tham nhũng thì sẽ bị tác hại rất là lớn…"

Tham luận của TS Lê Đăng Doanh tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 được báo chí giật tít lớn "Một đồng đút lót đổi một đồng lãi" đã nói lên tình trạng tham nhũng đang làm cản trở mọi ý định mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. TS Lê Đăng Doanh cho biết thêm:

"Chúng tôi có trích dẫn một báo cáo của cơ quan hỗ trợ phát triển của Anh đã tài trợ nghiên cứu và xuất bản tháng 8 năm 2014 vừa qua và được Ngân hàng Thế giới ở Việt Nam bảo trợ. Trong báo cáo đó đã điều tra các doanh nghiệp và đi đến con số hết sức đáng chú ý là để kiếm được một đồng lãi thì bình quân các doanh nghiệp phải đút lót khoảng 0,72 cho tới 1,2 đồng và tỷ lệ đó là rất cao.

Vấn đề chúng tôi đưa ra là phải nhanh chóng chống tham nhũng nếu không thì với chi phí cao như vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài mà các doanh nghiệp nước ngoài đến 2016 Cộng đồng kinh tế ASEAN hiệu lực thì họ đã ập vào Việt Nam rồi."

Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2015 tổ chức tại TP. Vinh hai ngày 21-22 tháng 04 diễn ra trong lúc Việt Nam có nhu cầu thực hiện một cuộc đổi mới lần thứ hai sau 30 năm. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm 67% tổng kim ngạch xuất khẩu và chiếm 70% giá trị sản xuất công nghiệp. Đây là một sự thật đắng lòng vì Hiến pháp 2013 qui định: "Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo."