Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

“Bí Mật Ngũ Giác Đài Phần I: Hoa Kỳ và Việt Nam 1940 – 1950” (Kỳ 3) (Nguyễn Quốc Vĩ d ịch)

Nguồn ethongluan

"…quốc hội Pháp mới thừa nhận nền Độc Lập chính trị và Thống Nhất cho Việt Nam. Ghi chép dưới đây là các bước chính đã làm Pháp thất bại, một mặt trong việc đạt một thỏa thuận với Hồ Chí Minh, và mặt khác là việc dựng lên "giải pháp Bảo Đại" thay vì nó.."

123, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15

I. A. 2

MỤC LỤC

2. Hoa Kỳ trung lập trong Chiến tranh Pháp-Việt Minh, 1946-1949. trang A-28

a. Thất bại đàm phán giải quyết trang A-28

b. Chính sách của Hoa Kỳ về cuộc xung đột;1947-1949 trang A-42

Hoa Kỳ trung lập trong Chiến tranh Pháp-Việt Minh, 1946-1949

Thất bại đàm phán giải quyết

Sự trở lại của người Pháp đến Bắc Kỳ vào tháng Ba, năm 1946, đã gây ra tình hình căng thẳng. Miền Bắc Việt Nam, truyền thống là một vùng hay thiếu lúa, đã bị một mùa thu hoạch tệ hại trong năm 1945. Nạn đói trầm trọng lại bị chồng chất thêm bởi sự tập trung của nhiều quân đội ở đồng bằng sông Hồng – lực lượng không chính quy của Việt Nam, nhiều nhất là của Việt Minh, khoảng 150.000 lính Trung Quốc, và sau đó là quân viễn chinh Pháp. Mọi người không chỉ đói, lại còn bất ổn về chính trị; niềm khát khao độc lập dân tộc đã được triệt để làm sâu sắc bởi Việt Minh và sự hình thành của nước VNDCCH. Trong khi tình cảm chống lại tất cả những kẻ chiếm đóng nước ngoài lên cao, Pháp vẫn là mục tiêu chính của sự thù địch. Tuy nhiên, Hiệp Ước ngày 06 tháng 3 đã trì hoãn chuyện thanh toán [lẫn nhau], nhằm làm dịu đi những người cực đoan ở Bắc Kỳ, và làm giảm các hoạt động du kích ở miền Nam Việt Nam. Hiệp Ước theo đó trong bất kỳ chỗ nào cũng đều nhấn mạnh sự hợp tác hòa bình giữa Pháp và VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam kéo dài tám tháng.

Tuy nhiên, thành lập Hiệp Ước 06 tháng 3 thừa nhận một sự thất bại cho Hồ Chí Minh, bởi vì chính sách của ông đã được hướng về việc quốc tế hóa Đông Dương. Hồ nhiều lần mở ngõ cho Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc, và Trung Quốc, Liên Xô, và Vương quốc Anh 36 / Những lá thư của ông ta trình bày những lời kêu gọi hùng hồn để Hoa Kỳ hay Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc thể hiện trong Hiến chương Đại Tây Dương, Hiến chương Liên Hợp Quốc, và lý do nhân đạo. Thư cuối cùng được chuyển tiếp đến Mỹ trước Hiệp Ước 06 tháng 3 1946, được tóm tắt trong điện tín sau đây từ một nhà ngoại giao Mỹ tại Hà Nội, nhận được ở Washington ngày 27 tháng 2 năm 1946:

"Hồ Chí Minh đưa cho tôi 2 lá thư gửi cho Tổng Thống Mỹ, Trung Quốc, Nga, và Anh các bản sao y mẫu mà tôi nhấn mạnh là đã được chuyển tiếp cho các chính phủ có tên ở đây. Trong 2 lá thư Hồ Chí Minh yêu cầu [sic] Mỹ là một [trong những thành viên] Liên Hiệp Quốc hỗ trợ ý tưởng một Việt Nam độc lập hình thức theo như Philippines [sic] để cứu xét trường hợp của Việt Nam, và thực hiện các bước cần thiết để duy trì hòa bình thế giới đang bị đe doạ bởi những nỗ lực Pháp nhằm tái chiếm Đông Dương. Ông khẳng định rằng Việt Nam sẽ chiến đấu cho đến khi Liên Hiệp Quốc can thiệp để hỗ trợ của Việt Nam độc lập. Kiến nghị được gửi tới các nước quan trọng của Liên Hợp Quốc bao gồm:

Xem xét lai các mối quan hệ Pháp với Nhật, ở chỗ Đông Dương thuộc Pháp bị cáo buộc hỗ trợ Nhật:

Tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 [sic] nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Việt Minh:

Tóm tắt thông tin về cuộc chinh phục Nam Kỳ của Pháp bắt đầu 23 Tháng Chín 1945 và vẫn chưa đầy đủ

Sơ lược về thành tựu của Chính phủ Việt Nam ở Bắc Kỳ bao gồm các cuộc bầu cử phổ biến, bãi bỏ các loại thuế không đáng có, mở rộng giáo dục và việc nối lại càng nhiều càng tốt các hoạt động kinh tế bình thường

Yêu cầu 4 cường quốc: (1) can thiệp và ngăn chặn cuộc chiến tranh ở Đông Dương để làm trung gian giải quyết một thỏa hiệp công bằng và (2) đưa vấn đề Đông Dương ra trước Liên Hiệp Quốc. Kiến nghị kết thúc với tuyên bố rằng Việt Nam yêu cầu được độc lập hoàn toàn trong thực tế và, tạm thời trong khi chờ đợi Liên Hiệp Quốc có quyết định, Việt Nam sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại việc tái lập chủ nghĩa đế quốc Pháp. Thư và kiến nghị sẽ được chuyển đến Bộ trong thời gian sớm nhất." 37/

Không có ghi nhận nào cho rằng Hoa Kỳ đã khuyến khích Hồ Chí Minh gửi yêu cầu của ông sang Mỹ, ngoại trừ những hỗ trợ OSS mà họ nhận được trong và lập tức ngay sau chiến tranh thế giới thứ II, cũng chẳng có gì ghi lại phản ánh rằng Mỹ đã trả lời một cách khẳng định về các kiến nghị của Hồ. Thay vào đó, Chính phủ Hoa Kỳ dường như chỉ đều đặn một chính sách nhắm vào Pháp hơn là nhắm vào các người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa để xây dựng những bước tiến tới độc lập cho Việt Nam. Vào ngày 5 Tháng 12, năm 1946, sau sự cố Tháng Mười Một, nhưng trước khi cuộc chiến nổ ra một cách nghiêm trọng, Bộ Ngoại Giao đã hướng dẫn các đại diện ngoại giao Mỹ tại Hà Nội như sau: 38/

"Giả sử bạn gặp Hồ ở Hà Nội và hãy đưa ra những suy nghĩ tổng thể hiện nay của chúng tôi sau đây như là một hướng dẫn,

"Giữ trong suy nghĩ một cách rõ ràng là Hồ là cán bộ quốc tế của chủ nghĩa cộng sản. Việc "không có bằng chứng hiển nhiên là [ông ta] lệ thuộc vào Moscow" đã làm nhầm lẫn tình hình chính trị với Pháp và chuyện Hồ nhận hỗ trợ của Đảng Cộng sản Pháp. Điều mong muốn ít nhất là một Nhà Nước sẽ được thành lập theo định hướng Cộng sản thống trị bởi Moscow theo như Bộ [Ngoại Giao] nhận đinh, tìm những thông tin chắc chắn về những yếu tố không Cộng Sản. Hãy báo cáo đầy đủ một cách liên tục hoặc yêu cầu Bộ nhắc nhở Paris.

"Những chuyện xảy ra gần đây ở Bắc Kỳ đã gây nhiều lo ngại sâu sắc. Hãy xem Hiệp Định ngày 06 tháng 3 và tình trạng bên nào ở yên nơi nấy [modus Vivendi] như là kết quả một đàm phán hòa bình để làm cơ sở để giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa Pháp và Việt Nam; và việc đặt trách nhiệm lên cả hai bên là không gây hại cho tương lai, nhất là cho Hội Nghị Fontainebleau sắp tới. Những chuyện không giải quyết nhất định sẽ đưa đến hành động khiêu khích cả hai bên, nhưng đối với chuyện này một thái độ kiên nhẫn hòa giải hợp lý là đặc biệt cần thiết. Sự không khoan nhượng của bất kể phía nào trong hai bên và sự cố tình khai thác những đụng chạm chỉ có thể làm chậm lại sư phục hồi nền kinh tế Đông Dương và đẩy lùi vô thời hạn những điều kiện cho sự hợp tác Pháp và Việt Nam mà cả hai đồng ý là cần thiết.

"Nếu Hồ giữ thế đứng là không thực hiện những lời hứa của một cuộc Trưng Cầu Dân Ý cho Đông Dương là đã chối bỏ trách nhiệm tuân thủ các thỏa thuận, nếu bạn thấy có thể cho ý kiến được thì nêu lên câu hỏi là liệu ông ta [Hồ] có tin rằng một cuộc Trưng Cầu Dân Ý sau một quá trình xáo trộn lâu dài là có thể đưa đến một kết quả có giá trị không và liệu ông ta có thể chịu xem xét thỏa hiệp một chế độ cho Đàng Trong [Nam Kỳ] thông qua thương lượng.

"Có thể nói là nhân dân Mỹ đã hoan nghênh những thành quả mà Đông Dương đã nỗ lực thực hiện, hoan nghênh niềm khát khao được có nhiều quyền tự chủ trong khuôn khổ thể chế dân chủ và nó sẽ là điều đáng tiếc nếu những quyền lợi và tình cảm này bị tan vỡ bởi thái độ không khoan nhượng và bạo lực được đưa ra từ bất kỳ lực lượng thuộc bất cứ xu hướng nào ở Việt Nam.

"Có thể thông báo cho Hồ [qua Đại sứ Mỹ ở Paris] thảo luận về tình hình cùng thái độ thẳng thắn như Pháp. Để bạn nắm thông tin, ngày 3 Tháng 12,[Bộ Ngoại Giao Anh] trong khi thảo luận đã nêu (1) không đặt vấn đề tái chiếm Đông Dương như vậy sẽ đi ngược lại công luận Pháp và có thể quá các nguồn tài lực của quân đội Pháp (2) Pháp sẽ tiếp tục chính sách căn bản ngày 06 Tháng Ba và giữ nguyên hiện trạng và sẽ đưa ra mọi nỗ lực để áp dụng nó thông qua thương lượng với Việt Nam (3) Pháp chỉ đưa ra những biện pháp mạnh mẽ với quy mô hạn chế trong những trường hợp vi phạm trắng trợn các thỏa thuận từ phía Việt Nam (4) Vai trò của D'Argenlieu là không co ích gì vì việc [ông ta] chán ghét các quan chức Việt Nam một cách thẳng băng và có lẽ một sự thay đổi là điều mong muốn, (5) Trong thế đứng là người giám hộ lợi ích quốc tế của Pháp Cộng sản Pháp lúng túng nhận hàng loạt công điện từ Việt Nam. [Đại Sứ] sẽ đưa ra việc chấp nhận bảng tuyên bố của Pháp kèm theo giám sát việc thực hiện. Thực hiện một chính sách như thế phải tiến xa đến việc cảnh giác bất cứ nguy hiểm nào như (1) không thể thỏa hiệp với phía Việt Nam và việc những kẻ cực đoan có thể đang ở vị trí làm chủ hoàn cảnh (2) Phía Việt có thể quay ra chống lại phương Tây và bám theo hệ tư tưởng và những phe phái thù địch với nền dân chủ mà kết quả không thể đảo ngược là sẽ kích động cả Đông Dương với những hậu quả ra toàn khu vực Đông Nam Á.

"Tránh gây ấn tượng là Chính phủ Hoa Kỳ can thiệp chính thức vào việc này

"Đưa ra công khai [mấy điều trên] bất kỳ dưới hình thức nào cũng sẽ là điều đáng tiếc.

"Paris được hướng dẫn tiến hành.

"Acheson, Quyền [Đại Sứ]

*************

Trong một thời gian, người Pháp dường như thật sự quan tâm đến việc theo đuổi một chính sách dựa trên Hiệp Ước ngày 06 tháng 3 và giữ nguyên hiện trạng, và tránh đụng độ quân sự với VNDCCH. Nếu có là những lời phát biểu trái chiều từ một số người ví dụ như Đô đốc D'Argenlieu, Cao Ủy Đông Dương, – đã đưa ra nhận định về "sự ngạc nhiên của ông rằng Pháp có một đội quân viễn chinh tài ba ở Đông Dương, nhưng các nhà lãnh đạo lại muốn đàm phán chứ không phải là để chiến đấu…. "- Có nhiều người như Tướng Leclerc, người đã dẫn quân Pháp vào Hà Nội ngày 18 tháng ba 1946, đã mau chóng gọi điện cho Hồ Chí Minh, nói rõ là ông sẽ bằng mọi cách tôn trọng Hiệp Định ngày 6 tháng Ba. "Vào lúc này", ông nói, "không có chuyện là chúng tôi sẽ áp đặt bằng vũ lực trên dân chúng là những người mong muốn sự phát triển và sự đổi mới " 39/

Đảng Xã hội Pháp – đảng chính trị nắm chi phối ở Pháp – luôn ủng hộ một cách đều đặn việc hòa giải trong năm 1946. Tháng Mười Hai, năm 1946 ngay cả sau khi sự cố vũ trang vào tháng giữa Mười Một giữa Pháp và VNDCCH ở miền Bắc Việt Nam, Leon Blum – người đã trở thành Thủ tướng Pháp đứng đầu nội gồm tất cả thành viên đều thuộc Đảng Xã Hội đã viết rằng Pháp đã không còn giải pháp nào nữa khác hơn là trao Độc Lập cho Việt Nam:

"Ở Đông Dương, chỉ còn một và một cách duy nhất để bảo tồn vinh quang của nền văn minh, ảnh hưởng chính trị và văn hóa của chúng ta, và cũng để bảo vệ những lợi ích vật chất hợp pháp của chúng ta : đó là chân thành thỏa thuận [với Việt Nam] trên cơ sở của một nền Độc Lập… " 40/

Đảng Cộng sản, một đảng cánh tả lớn khác ở Pháp, cũng hùng hồn nói hòa giải, nhưng đang chờ đợi nắm quyền kiểm soát chính phủ, nếu không phải một mình thì ít nhất phải là một phần của liên minh, họ có xu hướng cẩn thận hơn so với đảng Xã hội tránh gây tác động lên tình cảm dân tộc. Vào tháng Bảy năm 1946, tờ báo Nhân Đạo [L'Humanité] là tờ báo Cộng sản, đã nhấn mạnh rằng Đảng đã không mong muốn [Đế Quốc] Pháp bị teo giảm đến chỉ còn là vùng "lãnh thổ chính quốc nhỏ bé của nó" [metropolitain], nhưng cảnh báo rằng làm như vậy sẽ gây hậu quả là các dân tộc thuộc địa sẽ quay lại chống Pháp:

"Có phải chúng ta, sau khi mất Syria và Lebanon ngày hôm qua, mất Đông Dương vào ngày mai, Bắc Phi vào ngày hôm sau? " 41/

Trong kỳ họp Quốc hội vào tháng Chín, năm 1946, một Phó Chủ Tịch Đảng Cộng sản đã tuyên bố rằng:

Những người Cộng sản cũng như nhiều người khác đều ủng hộ sự vĩ đại của đất nước [Pháp]. Tuy nhiên,.. họ chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng Liên hiệp Pháp… chỉ có thể được thành lập trên cơ sở tin tưởng [lẫn nhau], tình huynh đệ, và trên tất cả, sự hợp tác dân chủ của tất cả các dân tộc và các chủng tộc đã cấu thành nên nó … " 42 /

Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã không thể tận dụng lợi thế với những kết nối của mình với cánh Tả Pháp (Hồ đã là một trong những thành viên sáng lập của Đảng Cộng Sản Pháp vào đầu những năm 1920) để khiến những người trong Đảng Xã Hội hay Đảng Cộng Sản đưa ra những ủng hộ công khai. Đảng Cộng sản đã không sẳn sàng ủng hộ Việt Nam vì cái giá phải trả là lá phiếu [của cử tri] ở Pháp. Đảng Xã Hội đang cầm quyền hòa giải chỉ trên đầu môi chót lưỡi, và đã để cho những người chủ trương thực dân, đặc biệt là những người này tại Việt Nam, thiết lập chính sách của Pháp ở Đông Dương, do đó, Đô đốc d'Argenlieu, không phải Tướng Leclerc, nói cho Chính phủ Pháp.

Vào giữa Tháng Mười Hai, năm 1946, ngay sau khi Blum nhậm chức, Hồ gửi ông này một bức điện tín với những đề xuất nhằm giảm bớt căng thẳng tại Việt Nam, nhưng bức điện này đã không đạt được Paris cho đến ngày 26 tháng 12. 43 /

Vào thời điểm đó các vụ đụng chạm đã xảy ra. Tại Hà Nội, ngày 19 Tháng Mười Hai 1946, quân đội Việt Nam, sau nhiều đụng chạm ngày càng tăng đôi khi với bạo lực đã cắt nước và điện của thành phố, và tấn công Pháp bằng vũ khí nhỏ, đạn cối và pháo binh. Vấn đề ai là kẻ tấn công trước không bao giờ giải quyết được. Cuộc chiến bùng lên trên khắp Bắc Việt Nam, và hai ngày sau đó, cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam đẩy nhanh tốc độ. Pháp đáp trả các cuộc tấn công ban đầu đôi khi dã man, việc này làm cho triễn vọng phục hồi nguyên trạng như trước ngày càng xa.

"Chúng tôi có nghĩa vụ đối phó với bạo lực. Tôi tuyên bố rằng những người đang chiến đấu ở đây, người Pháp Đông Dương, nhân dân thân hữu, có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự cảnh giác và quyết tâm của chính phủ.

"Nhiệm vụ chung của chúng tôi là cố gắng làm tất cả để tránh đổ máu cho con em chúng ta – và kể cả máu không phải là của chúng ta, nhưng tất cả máu là đều cùng của những người mà quyền tự do chính trị đã được chúng tôi công nhận mười tháng trước đây và của những người lẽ ra nên giữ vị trí của mình trong liên minh các dân tộc chung quanh nước Pháp [Liên Hiệp Pháp].

"Trước nhất, trật tự phải được tái lập, một trật tự trong hòa bình nhất thiết phải là cơ sở để thực hiện Hiệp Định " 44 /

Chỉ trong vòng một tuần sau khi đọc bài diễn văn [ủng hộ Việt Nam Độc Lập], Thủ Tướng Blum đã được thay thế bởi Paul Ramadier [Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng] của chính phủ đầu tiên của nền Đệ Tứ Cộng Hòa. Pháp gửi ba sứ giả vào Việt Nam vào thời điểm này: Đô đốc d'Argenlieu, Tướng Leclerc, và Bộ trưởng Bộ Xã Hội của Pháp Hải Ngoại, Marius Moutet. Đô đốc d'Argenlieu trở thành Cao Ủy Đông Dương, và tố cáo Việt Nam phá vỡ niềm tin của Pháp. Ông khẳng định một cách dứt khoát là Pháp có ý định giữ [chiếm lại] Đông Dương.

"… việc duy trì và phát triển ảnh hưởng hiện tại và lợi ích kinh tế của của nó [Pháp], việc bảo vệ các dân tộc thiểu số mà nó đã được tin tưởng phó thác, việc đảm bảo cho sự an toàn của các căn cứ chiến lược trong khuôn khổ quốc phòng của Liên bang [Đông Dương] và Liên Hiệp Pháp …

"Trong tình trạng đang xảy ra cho nhân dân Đông Dương, Pháp không có ý định giao Độc Lập cho họ một cách vô điều kiện và toàn diện, điều đó sẽ chỉ là một điều không tưởng gây phương hại nghiêm trọng đến lợi ích của hai bên."   45/

Hai đại diện khác của Pháp đã được gửi đi trong nhiệm vụ tìm hiểu thực tế. Báo cáo của họ lại chứa những đề nghị hoàn toàn trái ngược. Tướng Leclerc viết:

"Năm 1947, Pháp sẽ không còn [có thể] đánh bại bằng vũ lực một tập hợp của 24,000,000 người dân thật sự đoàn kết và trong họ đã có một lý tưởng bài ngoại và có lẽ là [đó là] lý tưởng dân tộc …

"Vấn đề từ nay là chính trị. Đây là một vấn đề được sinh ra với một chủ nghĩa dân tộc bài ngoại đang sống dậy, vấn đề là làm sao điều hướng nó để cứu vãn, ít nhất là một phần, các quyền lợi của Pháp … 46/

Ông Tướng [Leclerc] được gửi đi để thẩm tra tình hình quân sự, và trở về với một giải pháp chính trị. Ông "Xã Hội" Marius Moutet được đi tìm hiểu triển vọng chính trị, và trở về với kết luận rằng chỉ có một giải pháp quân sự đầy hứa hẹn. Giống Đô đốc d'Argenlieu, Moutet tin rằng không thể có cuộc đàm phán với Hồ Chí Minh. Ông viết "sự vỡ mộng tàn bạo của những thỏa thuận mà không thể nào đưa vào hiệu lực…, " Và ông tuyên bố rằng:

"Chúng tôi không còn có thể nói về một thỏa thuận tự do giữa Pháp và Việt Nam…"

"Trước khi có bất kỳ cuộc đàm phán nào ngày nay, cần thiết là phải có một quyết định quân sự. Tôi xin lỗi nhưng người ta không thể chấp nhận những cái điên rồ như người Việt Nam đã làm mà không bị trừng phạt…" 47/

Đó là ý tưởng của chính trị gia, chứ không phải là của ông Tướng đã chiếm ưu thế tại Paris. Thủ tướng Ramadier – một đảng viên Xã Hội nói về Hòa Bình cho Việt Nam, và tuyên bố rằng chính phủ của ông ủng hộ một Việt Nam độc lập và thống nhất:

"Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] sự hiệp nhất của cả ba nước An Nam [ba kỳ: Bắc, Trung, Nam] nếu người dân An Nam mong muốn nó…" 48/

Đồng thời, tuy nhiên, chính phủ của ông lại cho phép đô đốc D'Argenlieu tung một chiến dịch quân sự qui mô và với ý định là để trừng phạt.

Rất sớm trong chiến tranh, Pháp đã đưa ra bóng ma Cộng Sản được âm mưu tại Việt Nam. Đô đốc D'Argenlieu ở Sài Gòn kêu gọi một sự phối trí các cường quốc phương Tây cho một đường lối quốc tế chung nhằm chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản ở Á Châu, bắt đầu, với Việt Nam. Trong một cuộc thảo luận Quốc hội vào tháng ba năm 1947, một Phó [Chủ Tịch Quốc Hội] thuộc cánh hữu đã đưa ra cáo buộc là bạo lực ở Việt Nam đã được chỉ thị từ Moscow:

"Chủ Nghĩa Dân tộc ở Đông Dương là một phương tiện, cuối cùng là chủ nghĩa đế quốc Liên Xô" 49/

Cả chính phủ cũng như người Pháp đều không chú ý đến lời tuyên bố của Tướng Leclerc vào tháng Giêng năm 1947:

"Chống chủ nghĩa cộng sản chỉ là một công cụ vô dụng bao lâu mà vấn đề chủ nghĩa dân tộc vẫn chưa được giải quyết" 50/

Hồ Chí Minh, về phần mình, đã liên tục kêu gọi Hòa Bình với Pháp, thậm chí còn đề nghị tự rút lui.

"Khi Pháp công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất chúng tôi sẽ lui về làng nghỉ hưu vì chúng tôi không tham vọng về quyền lực hay vinh quang"

Tháng 2 năm 1947 Pháp đưa ra những điều kiện cho Hồ tương đương với việc đầu hàng vô điều kiện. Hồ thẳng thừng từ chối này, hỏi lại người đại diện Pháp "Nếu bạn đang ở vị trí của tôi bạn sẽ chấp nhận chúng không…? Liên Hiệp Pháp là không có chỗ cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều kiện này tôi là một trong những kẻ đó " 52/ Ngày 01 Tháng ba 1947, Hồ kêu gọi công khai chính phủ Pháp và nhân dân Pháp:

"Một lần nữa, tôi long trọng tuyên bố rằng mọi người Việt Nam đều duy nhất mong muốn Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp, và chúng tôi cam kết tôn trọng lợi ích kinh tế và các lợi ích văn hóa của Pháp… Chỉ cần Pháp nói một lời để chấm dứt sự thù địch thì ngay lập tức, mạng sống của rất nhiều người và rất nhiều tài sản sẽ được cứu vãn và tình hữu nghị và niềm tin [lẫn nhau] sẽ được tái lập." 53/

Tuy nhiên, Pháp ít quan tâm đến việc đàm phán. Thủ Tướng Ramadier nêu lên vào Tháng Ba năm 1947, rằng:

"Chúng ta phải bảo vệ tính mạng và tài sản của người Pháp, người nước ngoài, của bạn bè Đông Dương của chúng ta là những người đặt niềm tin lên sự Tự Do của Pháp. Việc cần thiết là chúng ta bớt quân trú phòng của chúng ta, tái lập lại các trục lộ giao thông cần thiết, đảm bảo sự an toàn cho dân chúng đã nương tựa với chúng ta. Việc ấy chúng ta đã thực hiện" 54/

Ramadier và các bộ trưởng của ông đã nói nhiều lần vào mùa xuân năm 1947 về một kết thúc không tránh khỏi của "giai đoạn quân sự" của cuộc khủng hoảng, và bắt đầu của một "giai đoạn xây dựng", trong đó có lẽ kinh tế và hỗ trợ chính trị sẽ thay thế các biện pháp quân sự, nhưng điều ấy đã trở thành một mô hình đầy kỳ vọng và thất vọng, nền Đệ Tứ Cộng Hòa phát hiện ra rằng lực lượng quân sự của mình không có khả năng kiểm soát ngay cả những tuyến đường chính tại Việt Nam và giải pháp quân đội đã làm tiêu hao nghiêm trọng các nguồn lực của Liên Hiệp Pháp. Tháng Ba năm 1947 một sư đoàn bổ sung của quân đội viễn chinh Pháp được phái đến Việt Nam theo đề nghị của Tướng Leclerc đã bị chuyển hướng trên đường để đi dập tắt một cuộc nổi dậy ở Madagascar

Vào mùa hè năm 1947, Chính phủ Pháp nhận thức rằng tình hình Đông Dương là bế tắc. Thất bại trong cố gắng áp đặt một giải pháp quân sự, họ đã phải quay sang giải pháp chính trị, như đề nghị của Tướng Leclerc. Một lần nữa ý kiến của Đô đốc D'Argenlieu lại có sức nặng. Tháng Giêng, 1947, D'Argenlieu đã viết:

"Nếu chúng ta xem xét vấn đề một cách cơ bản, chúng tôi sẽ đi đến câu hỏi liệu một hình thái chính trị mà không ai nghi ngờ về khả năng nhận hưởng mọi uy tín chính trị chính danh nhưng không phải là kiểu triều đình truyền thống như vừa mới đây còn tồn tại trước khi Nhật đầu hàng…. Sự trở lại của Hoàng đế [Bảo Đại] sẽ trấn an tất cả những ai, trước đây chống đối Việt Minh, đang sợ bị buộc tội phản quốc." 55/

Pháp đã chọn Bảo Đại, không chọn Hồ Chí Minh, để thương thảo một giải pháp chính trị với người Việt Quốc Gia.

Sứ giả Pháp tiếp cận với Bảo Đại với những điều khoản không khác gi khi đàm phán với Hồ Chí Minh vào ngày 6 tháng 3 năm 1946: Thống nhất và độc lập trong Liên hiệp Pháp, giao cho Bảo Đại thành lập một chính phủ rõ ràng là một giải pháp thay thế cho VNDCCH của Hồ Chí Minh. Với sự khuyến khích của Pháp, một số nhóm người Việt Quốc Gia thành lập một đảng chính trị ủng hộ Bảo Đại nắm quyền lãnh đạo tối cao cho một chính thể không-Việt Minh. Lúc đầu Bảo Đại lảng tránh và bi quan, nhưng rồi cuối cùng nghĩ rằng tình hình Đông Dương đủ tuyệt vọng từ đó Pháp buộc phải tôn trọng những cam kết của mình. Thêm vào đó dường như ông tin rằng ông có thể thu hút được hỗ trợ và viện trợ vật chất của Mỹ – một cái nhìn có thể đã được nẩy nở từ một bài báo năm 1947 trên tạp chí Life, William C. Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp một người có nhiều ảnh hưởng, đã ủng hộ Bảo Đại như một giải pháp cho tình trạng khó xử của Pháp. 56 /

Sau đó Pháp tiến hành ký kết với Bảo Đại một loạt các thỏa thuận, mỗi một trong số đó có vẻ như là mang Bảo Đại đến gần quyền tự chủ đích thực cho Việt Nam hơn. Tuy nhiên, cho đến tháng Hai năm 1950, quốc hội Pháp mới thừa nhận nền Độc Lập chính trị và Thống Nhất cho Việt Nam. Ghi chép dưới đây là các bước chính đã làm Pháp thất bại, một mặt trong việc đạt một thỏa thuận với Hồ Chí Minh, và mặt khác là việc dựng lên "giải pháp Bảo Đại" thay vào đó. 57/

(xem tiếp kỳ 4)

Nguyễn Quốc Vĩ dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét