Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

LS Nguyễn Lệnh : Đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam?

Nguồn anhbasam


Posted by basamnews on August 30th, 2013

LS Nguyễn Lệnh

29-08-2013

Trước khi Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời năm 1946, có gần 30 tổ chức có mục đích chính trị, hoạt động công khai hay bí mật tùy theo đường lối, lập trường của tổ chức đó. Những tổ chức có mục đích chính trị này (không phải là tổ chức có mục đích kinh tế, xã hội…) thường đặt tên cho mình là hội, đảng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, liên hiệp … Xin liệt kê tên các liên minh và đảng phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Hiến pháp 1946 như sau: – Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội – Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội – Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội – Việt Nam Quang phục Hội – Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – Hội Phục Việt – Đảng Lập hiến Đông Dương – Tân Việt Cách mạng Đảng – Đảng Việt Nam Độc lập – Việt Nam Quốc dân Đảng – Đông Dương Cộng sản Đảng – An Nam Cộng sản Đảng – Đảng Cộng sản Việt Nam – Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng – Đại Việt Dân chính Đảng – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đảng Dân chủ Đông Dương – Việt Nam Cách mệnh Đảng – Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đại Việt Duy tân Cách mệnh Đảng – Đảng Dân chủ Việt Nam – Đông Dương Cộng sản Liên đoàn – Việt Nam Dân chúng Liên đoàn – Mặt trận Quốc gia Thống nhất – Mặt trận Quốc gia Liên hiệp – Đại Việt Quốc gia Liên minh …(*)

Như vậy, một "tổ chức chính trị" – tức là tổ chức có mục đích chính trị, trước năm 1946 có thể mang những tên khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh, Liện hiệp … và để xác định xem hiện nay đã có đủ căn cứ pháp lý hay chưa cho việc thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta cần phải xem xét một cách đầy đủ các văn bản pháp luật đã được ban hành từ trước đến nay và còn hiệu lực về vấn đề này như sau:

1/ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946:

Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 10: "Công dân Việt Nam có quyền: -Tự do ngôn luận – Tự do xuất bản – Tự do tổ chức và hội họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài."

Vì lúc bấy giờ chưa có Luật để giải thích "quyền tự do tổ chức" trong Hiến pháp 1946 là như thế nào nhưng có thể hiểu là: quyền tự do thành lập và tham gia những tổ chức hoạt động có mục đích chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp … Hiến pháp 1946 không có một dòng chữ nào đề cập đến vai trò của bất cứ tổ chức chính trị nào đang hoạt động kể cả Đảng Cộng sản Việt Nam.

2/ Hiệp định Genève 1954 phân chia nước Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chính thể khác nhau:

- Ở miền Nam: Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (1954 – 1975) tiếp tục áp dụng chế độ đa đảng trong 21 năm. Có tổng cộng 8 tổ chức chính trị, hợp pháp lẫn không hợp pháp là: – Đảng Dân chủ Nam Việt Nam – Đảng Cần lao Nhân vị – Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam – Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đại Việt Cách mạng Đảng – Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam – Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (*).

- Ở miền Bắc: Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục duy trì chế độ đa đảng cho đến khi ban hành Luật quy định quyền lập hội năm 1957, trong đó có quy định về việc "phải xin phép lại" đã làm giảm rất nhiều các tổ chức chính trị thành lập trước ngày ban hành luật này.

3/ Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 Quy định quyền lập hội:

"Quyền lập hội" là thuật ngữ được Luật ngày 20/5/1957 này sử dụng chính thức thay cho "Quyền tổ chức" trong Hiến pháp 1946 với những điều quy định quan trọng như sau:

- Điều 1: "Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta".

Quy định tại Điều 1 này không giới hạn lĩnh vực hoạt động của hội: chính trị, xã hội, nghề nghiệp …, miễn là "mục đích" phải "chính đáng, phù hợp với lọi ích nhân dân …". Tuy nhiên, "quyền tự do tổ chức" tại Điều 10 Hiến pháp 1946 đã bị thu hẹp rất nhiều bởi các quy định tại Điều 3 và 4 về việc "lập hội phải xin phép" đối với hội mới và "phải xin phép lại" đối với hội cũ.

- Điều 3: "Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định."

Với quy định của Điều 3 này, những ai muốn lập hội mới đã phải chờ đến 46 năm thì Chính phủ mới ban hành thể lệ lập hội (30/7/2003).

- Điều 4: "Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại."

Với quy định tại Điều 4 này, hầu hết những tổ chức chính trị cũ đều không vượt qua được cửa quyền "cấp phép lại" này của Chính phủ.

- Điều 9: "Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này."

Với quy định của Điều 9 này là nhằm dành quyền "không phải xin phép lại" cho những tổ chức chính trị đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 – 1945) do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ xướng hình thành và là thành viên tích cực với vai trò lãnh đạo.

- Điều 10: "Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này."

Với quy định của Điều 10 này có thể tạm định nghĩa hội theo Luật năm 1957 là những tổ chức hoạt động có các mục đích chính trị, xã hội, nghề nghiệp…nhưng không có mục đích kinh tế (vì lợi nhuận) và phải được Chính phủ cấp phép hoạt động.

Trên thực tế, từ ngày Luật quy định quyền lập hội được ban hành năm 1957 đến ngày Việt Nam thống nhất năm 1975, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì chế độ đa đảng nhưng chỉ còn lại 3 tổ chức chính trị. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam.

Có thể nhận thấy Luật quy định quyền lập hội năm 1957 này đã quy định rất thoáng về điều kiện thành lập hội: Chỉ cần "có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta". Nhưng cũng với quy định về việc "phải xin phép lại" đối với hội đã thành lập và "lập hội phải xin phép" đối với hội mới – mà Chính phủ lại không ban hành "thể lệ lập hội" mới, nên đến năm 1975 chỉ còn lại có 3 đảng hoạt động hợp pháp nói trên.

4/ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31/12/1959:

Hiến pháp 1959 có nói đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 ở phần Lời nói đầu.

Quyền lập hội được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp: "Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó."

Như vậy là cả Hiến pháp 1959 và Luật quy định quyền lập hội 1957 đều thừa nhận chế độ đa đảng.

5/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/12/1980:

Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định rằng: "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các tồ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp".

Điều 67: "Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập lhội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân…"

Chính 2 từ "duy nhất" trong Điều 4 này đã tạo nên chế độ "độc đảng". Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải "tự giải thể" vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.

6/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992:

Điều 2: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…"

Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay mọi người phải tuân theo pháp luật.

Điều 4: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng (bỏ 2 từ duy nhất) lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."

Trong Điều 4 này đã bỏ đi 2 từ duy nhất. Điều này có nghĩa là Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng mà Hiến pháp 1980 đã quy định dành cho Đảng Công sản Việt Nam và khiến cho 2 đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải tự giải thể năm 1988.

Điều 4 này cũng bổ sung thêm 2 từ "pháp luật" trong cụm từ "khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" nhằm tăng cường giám sát hoạt động của Đảng CSVN bằng pháp luật cho phù hợp với Điều 2 và làm giảm quyền hành quá lớn của Đảng CSVN theo Hiến pháp 1980.

7/ Tại sao Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng ?

Theo tôi, về mặt pháp lý, Hiến pháp 1992 phải sửa đổi, bỏ đi 2 từ "duy nhất" trong Điều 4 của Hiến pháp 1980, mặc nhiên hủy bỏ chế độ độc đảng dành cho Đảng CSVN là vì 2 lý do sau:

- Đã có mâu thuẫn pháp lý ngay trong 2 điều của bản Hiến pháp năm 1980, đó là Điều 4 và Điều 67. Một khi Hiến pháp đã quy định là "Công dân có quyền tự do lập hội" – trong hội có bao gồm cả đảng, thì làm sao có thể chỉ có một đảng "duy nhất" được. Sự sai lầm của HIến pháp 1980 đã được Hiến pháp 1992 sửa sai.

- Ngày 24/9/1982 Việt Nam đã gia nhập "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị -1966″ nên phải thực hiện cam kết của mình bằng cách hủy bỏ 2 từ "duy nhất" trong Điều 4 Hiến pháp 1980 nhằm thực hiện các quyền và tự do của con người theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó có quyền tự do lập hội. Xin trích Điều 2 khoản 2 của Công ước quốc tế này như sau: "Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiên bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này" .

8/ Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995:

Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về pháp nhân. Bên cạnh các quy định về điều kiện để được công nhận là pháp nhân (Điều 94) và pháp nhân được thành lập theo sáng kiến cá nhân, tổ chức hay theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 95) thì quy định của BLDS về các loại pháp nhân tại Điều 110 là rất đáng chú ý:

"Điều 110. Các loại pháp nhân:

1. Pháp nhân bao gồm các loại sau đây:

a/ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;

b/ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;

c/ Tổ chức kinh tế;

d/ Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;

đ/ Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;

e/ Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật này.

2. Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân." Căn cứ vào Điều 110 này của BLDS năm 1995 và căn cứ vào Điều 1 và Điều 10 của Luật quy định quyền lập hội năm 1957 thì có 6 loại pháp nhân sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Đó là: 1. Tổ chức chính trị, 2.Tổ chức chính tri – xã hội, 3.Tổ chức xã hội, 4.Tổ chức xã hội-nghề nghiệp, 5.Quỹ xã hội, 6.Quỹ từ thiện.

Như vậy, một pháp nhân được xác định là tổ chức chính trị khi có mục đích hoạt động chính trị. Đảng là một tổ chức chính trị có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS. Đảng là 1 trong 6 loại pháp nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: "Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản."

"Mục đích hoạt động" chính là nội dung cơ bản để phân biệt các loại pháp nhân được Luật quy định quyền lập hội năm 1957 điều chỉnh.

9/ Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội:

Nghị định này căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội.

Nghị định này chính là "thể lệ lập hội" mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 có quy định tại Điều 3 là "sẽ do Chính phủ quy định". Một từ "sẽ" trong Luật quy định quyền lập hội 1957 lại bị Chính phủ kéo dài đến 46 năm (!).

Nghị định này của Chính phủ đã đưa ra một định nghĩa "khó hiểu" về hội tại Điều 2. Thậm chí, có thể nói là Nghị định đã bóp méo, đã làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa so với định nghĩa rất thoáng tại Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957. Xin trích dẫn Điều 2 của Nghị định:

"Điều 2. Hội 1.

Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

2. Hội có các tên gọi khác nhau: liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)" .

Sự "khó hiểu" trong Nghị định chính là : – Điều 1 Luật quy định quyền lập hội 1957: "Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta" .

"Mục đích" trong Điều 1 Luật quy định quyền lập hội năm 1957 đã bị diễn giải hoàn toàn khác hẳn trong Điều 2 Nghị định Chính phủ năm 2003.

- Điều 110 Bộ luật dân sự 1995 khi phân loại các pháp nhân cũng quy định tại khoản 2 rằng: "Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định và tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân".

"Mục đích hoạt động" bao gồm: chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp. Đó là tiêu chuẩn để phân loại tổ chức là pháp nhân theo BLDS.

Còn khoản 2 của Điều 2 Nghị định này lại cố ý chỉ định một số tên gọi như là hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ nhằm loại khỏi Nghị định tên gọi đảng là tổ chức chính trị thường được sử dụng mà chính Luật quy định quyền lập hội 1957 đã bao gồm trong đó. Điều quy định này của Nghị định là "khó hiểu" và trái với nội dung thể hiện trong Luật quy định quyền lập hội 1957.

Tuy nhiên, Nghị định này lại công nhận các "tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp" cũng là hội, tại khoản 2 Điều 4.

Trong hệ cấp các văn bản pháp luật thì Luật cao hơn Nghị định. Vì vậy, những điểm nào trong Nghị định không rõ ràng hoặc trái với Luật thì sẽ áp dụng quy định trong Luật.

Như vậy, Nghị định Chính phủ số 88/2003NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội đã ban hành "thể lệ lập hội" căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 lại tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân. Người dân có quyền tự do lập hội, miễn là lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta như đã quy định tại Điều 1 của Luật này. Vì vậy, Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957 được áp dụng thay vì áp dụng Điều 2 Nghị định Chính phủ 2003.

10/ Các căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam:

Như trình bày nêu trên, đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Các căn cứ đó là:

- Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) đều quy định quyền tự do lập hội của công dân.

- Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 quy định quyền lập hội trong đó có tổ chức đảng. Luật này quy định rõ rằng: "Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta". Mọi quy định trong văn bản dưới luật của Chính phủ khi ban hành "thể lệ lập hội" trái với Luật này đều bị coi là vi phạm Luật và bị hủy bỏ.

- Bộ luật dân sự năm 1995 đã phân ra 9 loại pháp nhân, trong đó có 6 loại pháp nhân được điều chỉnh bởi Luật quy định quyền lập hội là: – Tổ chức chính tri, Tổ chức chính trị – xã hội, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp, Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 có bổ sung thêm một loại pháp nhân nằm trong hội nữa là: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.

- Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội 1957 để ban hành "thể lệ lập hội". Nghị định này được thay thế bởi Nghị định Chính phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 với chút ít điều chỉnh, bổ sung.

- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 mà nước Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982, cam kết thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này. Khoản 1 Điều 22 Công ước này quy định: "Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đòan để bảo vệ lợi ích của mình".

- Đặc biệt là quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1980 rằng "Đảng CSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội…" đã bị Hiến pháp năm 1992 hủy bỏ 2 từ "duy nhất" tại Điều 4. Tức là Hiến pháp 1992 đã không thừa nhận chế độ "độc đảng" của Đảng Cộng sản VN trong Hiến pháp 1980.

Với những những điều trình bày trên cho thấy hệ thống pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế mà VN tham gia đã có đủ căn cứ pháp lý để công dân Việt nam thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là ý kiến cá nhân. Tôi mong có một hội thảo chính thức về vấn đề pháp lý này để mọi công dân Việt Nam được hiểu rõ hơn về một quyền chính trị rất quan trọng của mình.

*****

(*) Theo Wikipedia tiếng Việt

Ghé thăm các blogs: 29/08/2013 (diễn đàn thế kỷ)

Nguồn diendantheky


BLOG TÂM SỰ Y GIÁO 


Báo Nhân Dân, trong bài thuộc chuyên mục Bình luận và Phê phánngày 22-8-2013 cho biết tác giả của bài này là Amari TX, một người Mỹ gốc Việt. Được biết tác giả này có nhiều bài đã được đăng trên báo giấy cũng như báo điện tử ở Việt Nam, và là chủ của trang blog amaritx.wordpress.com, mà từ một bài trong đó, báo Nhân Dân đã đăng lại thành bài nói trên. Trên trang blog này, không khó để nhận ra giọng văn chính luận của một người chuyên làm công tác chính trị tư tưởng, từ ý tưởng, hành văn, câu cú cho đến cách sử dụng các thuật ngữ thuộc chuyên môn nghiệp vụ tuyên huấn. Điều đó làm cho mình băn khoăn : Ông Amari TX này là ai mà viết hay thế, hùng hồn thế ? Sao ông ta là công dân Mỹ mà lại có cách hành văn của một nhà lý luận ở Việt Nam, một người marxist kiên trung đến thế ?

Hôm nay mình tình cờ đọc bài trên báo Sài Gòn Giải Phóng của TS. Hoàng Văn Lễ, thì thấy có những ý, những câu giống hệt như của tác giả Amari TX.

Chẳng hạn, TS. Hoàng Văn Lễ viết :
Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chắc "Đằng ấy" biết rằng: Một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là chế độ đa nguyên về chính trị. Trung Quốc hiện nay có 9 đảng chính trị thì 8 đảng thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là người duy nhất lãnh đạo nước Trung Hoa, lấy chung mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là chế độ đa đảng mà nhất nguyên về chính trị. Ở Mỹ, tuy có 2 đảng nhưng có đúng là chế độ đa nguyên về chính trị không? Bởi 2 đảng này chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản còn xét về bản chất giai cấp - xã hội, 2 đảng này là đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau: củng cố và phát triển thể chế chính trị đầy bất công ở Mỹ. Ở Anh và Nhật Bản, hiến pháp lại thừa nhận vai trò của nhà vua, họ là những nhà nước quân chủ lập hiến. Không ai có thể đòi hỏi các quốc gia ấy xóa bỏ thể chế riêng có của họ. Ở nước Nga thời hậu Xô-viết, người ta cũng thành lập chế độ cộng hòa tổng thống theo cách thức của người Nga chứ không theo cách thức của người Anh để tái thiết lập chế độ Sa hoàng… 

Thưa anh Lê Hiếu Đằng, hẳn anh cũng biết rằng, một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị là do một loạt nhân tố quy định, trong đó tương quan lực lượng xác lập vị trí vai trò lãnh đạo, cầm quyền của đảng, những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận – hiện đại, xác lập vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Còn Amari TX thì viết :
Xin nói để ông và các 'chiến hữu' của ông biết : một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là một chế độ đa nguyên về chính trị. Chẳng hạn ở Mỹ hiện nay, tuy đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền, nhưng nếu xem đó là chế độ đa nguyên về chính trị thì chưa hẳn đúng. Bởi lẽ, hai đảng chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản ; xét về mặt bản chất giai cấp – xã hội, hai đảng là đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau là củng cố và phát triển thể chế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ... Ở các nước khác cũng tương tự như vậy, cho dù nước Mỹ khác nước Anh, nước Anh lại không giống nước Pháp, nước Ý. Ở Anh và Nhật Bản, hiến pháp lại thừa nhận vai trò của nhà vua, họ là những nhà nước quân chủ lập hiến. Không ai ngớ ngẩn, rỗi hơi, vô lối đòi hỏi các quốc gia ấy xóa bỏ chế độ quân chủ lập hiến để hiến định chế độ cộng hòa, cộng hòa tổng thống hay cộng hòa dân chủ nhân dân...

Một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên, về chính trị do một loạt nhân tố quy định, trong đó, đáng quan tâm nhất là : tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bối cảnh xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của đảng, những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận – hiện đại, có thể thấy ở nước ta, bối cảnh xác lập vị trí duy nhất lãnh đạo xã hội, xác lập vai trò duy nhất cầm quyền của ĐCS Việt Nam như sau : Đây là nhân tố hoàn toàn khách quan, độc lập với ý chí của mọi chủ thể hoạt động chính trị. Vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam là một tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử dân tộc, không phải do ai áp đặt lên xã hội.
Và đây là bảng đối chiếu :

Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chắc "Đằng ấy" biết rằng: Một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là chế độ đa nguyên về chính trị. Trung Quốc hiện nay có 9 đảng chính trị thì 8 đảng thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là người duy nhất lãnh đạo nước Trung Hoa, lấy chung mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là chế độ đa đảng mà nhất nguyên về chính trị. Ở Mỹ, tuy có 2 đảng nhưng có đúng là chế độ đa nguyên về chính trị không? Bởi 2 đảng này chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản còn xét về bản chất giai cấp - xã hội, 2 đảng này là đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau: củng cố và phát triển thể chế chính trị đầy bất công ở Mỹ.

Ở Anh và Nhật Bản, hiến pháp lại thừa nhận vai trò của nhà vua, họ là những nhà nước quân chủ lập hiến.Không ai có thể đòi hỏi các quốc gia ấy xóa bỏ thể chế riêng có của họ.

Thưa anh Lê Hiếu Đằng, hẳn anh cũng biết rằng, một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị là do một loạt nhân tố quy định, trong đó tương quan lực lượng xác lập vị trí vai trò lãnh đạo, cầm quyền của đảng, những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó.

Việt Nam trong thời kỳ lịch sử cận – hiện đại, xác lập vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xin nói để ông và các 'chiến hữu' của ông biết : một chế độ đa đảng chưa hẳn đã là một chế độ đa nguyên về chính trị.

Chẳng hạn ở Mỹ hiện nay, tuy đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền, nhưng nếu xem đó là chế độ đa nguyên về chính trị thì chưa hẳn đúng. Bởi lẽ, hai đảng chỉ đối lập nhau trên một số phương diện không cơ bản ; xét về mặt bản chất giai cấp – xã hội, hai đảng là đồng nhất, có mục tiêu căn bản giống nhau là củng cố và phát triển thể chế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ... Ở các nước khác cũng tương tự như vậy, cho dù nước Mỹ khác nước Anh, nước Anh lại không giống nước Pháp, nước Ý. Ở Anh và Nhật Bản, hiến pháp lại thừa nhận vai trò của nhà vua, họ là những nhà nước quân chủ lập hiến. Không ai ngớ ngẩn, rỗi hơi, vô lối đòi hỏi các quốc gia ấy xóa bỏ chế độ quân chủ lập hiến để hiến định chế độ cộng hòa, cộng hòa tổng thống hay cộng hòa dân chủ nhân dân...

Một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên, về chính trị do một loạt nhân tố quy định, trong đó, đáng quan tâm nhất là : tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bối cảnh xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của đảng, những thành tựu mà nhân dân đạt được trong thực tiễn phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng đó. Vận dụng vào điều kiện cụ thể củaViệt Nam trong thời kỳ lịch sử cận – hiện đại, có thể thấy ở nước ta, bối cảnh xác lập vị trí duy nhất lãnh đạo xã hội, xác lập vai trò duy nhất cầm quyền của ĐCS Việt Nam như sau : ...

Được biết, bài của TS. Hoàng Văn Lễ (cựu Tổng biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng) được báo SGGP đăng lúc 7h20 ngày 26-8-2013, nghĩa là sau bài của Amari TX trên báo Nhân Dân 4 ngày, và cũng sau bài của Amari TX trên blog amaritx.wordpress.com 4 ngày.

Nếu TS. Hoàng Văn Lễ và Amari TX là hai người khác nhau, thì có thể kết luận mà không phải chần chừ gì nữa : TS. Hoàng Văn Lễ đã trắng trợn đạo văn của Amari TX !

Tuy nhiên, điều này rất khó xảy ra giữa các tác già của hai tờ báo lớn là Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng, đều là những cơ quan ngôn luận rất lớn của Đảng. Bởi nếu như thế thì chẳng còn ra cái thể thống gì nữa.

Vì vậy, có lẽ chỉ còn một khả năng duy nhất : Amari TX chính là TS Hoàng Văn Lễ, cựu Tổng Biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng !

Và nếu điều này xảy ra, thì chỉ có thể gọi đây là một SỰ LỪA DỐI KINH HOÀNG!


Ông Hoàng Văn Lễ


FACEBOOK HOÀNG NGỌC DIỆP

Có lẽ tôi, và cũng có thể có nhiều người khác, may mắn được đụng chạm đến chính trị, xã hội và quản trị, từ khi còn trẻ, từ khi chưa biết gì về chúng, cho đến nay, được bơi lội trong những lĩnh vực độc đáo này kéo dài đã gần 40 năm kể từ lần đầu đụng chạm thực tế. 

Và tất nhiên, như một con người bình thường khác, tôi cũng ghi nhận được những sự phát triển trong nhận thức của chính mình. Có những nhận thức mới là sự thay đổi để loại bỏ những nhận thức sai lầm trước đó, nhưng cũng có những nhận thức mới làm tôi thấu hiểu hơn nhưng không thay đổi bản chất của nhận thức ban đầu.

Và những gì tôi tâm sự dưới đây cũng chỉ mong anh em trẻ không bị mất quá nhiều thời gian như những người đi trước trong đó có cá nhân tôi.

-----

Vào vài năm cuối thập niên 1970s, lúc đó những người tỵ nạn CS đến Úc rất nhiều, rất nhanh, những uẩn ức, hận thù, căm phẫn trong cộng đồng tỵ nạn rất cao, rất lớn, và tất nhiên những sinh hoạt chống CSVN cũng rất năng nổ.

Lúc đó, một tổ chức chống CSVN ra đời với tên "Phục Quốc", vì những người đứng ra tổ chức là những người thân tình cấp cha anh của tôi, cho nên tôi cố gắng lắng nghe, tìm hiểu, để hy vọng cùng tham gia… Nhưng sau một thời gian lắng nghe, nhất là khi họ tuyên bố sẽ về lại Việt Nam để phục quốc, thì tôi bắt đầu lo lắng và buồn.

Đầu tiên, không rõ là mình lo lắng điều gì và tại sao lại buồn, tôi đã phải suy nghĩ thật kỹ, nhất là mình lúc đó chỉ là một cậu thanh niên chưa tới tuổi 20, và chỉ có một kinh nghiệm nhỏ hồi 14 tuổi thôi, sau một thời gian tôi mới mạnh dạn đặt cho họ các câu hỏi sau:

- Làm sao các chú, các anh có thể an toàn khi về Việt Nam như thế này?

- Làm sao các chú, các anh bảo vệ được những người trong nước sẽ theo và ủng hộ mình?

Tất nhiên, tôi đã không tham gia vào tổ chức của họ, và tất nhiên,  câu trả lời của họ là "Chúng tôi sẵn sàng hy sinh tính mạng, và những ai cùng tham gia thì cũng phải sẵn sàng hy sinh tính mạng như chúng tôi."

Nhận thức của tôi lúc đó chỉ vậy! Và nỗi buồn thì chưa tìm ra được tại sao…

-----

Vài năm sau, khi đã biết về quản trị, ít ra là những đại cương về quản trị, tôi lại đặt thêm những câu hỏi sau:

- Tại sao họ dám liều lĩnh về Việt Nam mà không biết gì về môi trường cụ thể trong nước?

- Tại sao ngay cả câu đơn giản như "biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng" mà họ không hề có một chút kiến thức gì hay có những người những mạng lưới làm tai mắt cho họ từ trong nước trước?

- Tại sao họ không có trách nhiệm chuẩn bị những giải pháp cho chính họ và tất cả những người trong nước theo họ, nếu họ thất bại?

Kiến thức của tôi đã tốt hơn để đưa ra những câu hỏi sâu hơn. Nhưng nỗi buồn thì vẫn cứ như vậy và vẫn chưa tìm ra được tại sao…

-----

Sau vài năm, họ thất bại, một số người hy sinh, một số người bị bắt, một số ở tù tại Việt Nam rất nhiều năm, có vài người chỉ ở tù vài năm vì được sự can thiệp từ nước ngoài… tất nhiên, tổ chức họ phải tan rã. Và tất nhiên, trong thời gian đó, lại có những tổ chức chống CSVN khác trội lên, mạnh hơn, đông hơn, nhìn thoáng qua thì có vẻ "bài bản" hơn, nhưng khi tôi đặt ra những câu hỏi trên và một số câu hỏi dưới đây thì lại đụng phải những câu trả lời tương tự, hay im lặng, hoặc tệ hơn là…"đây là bí mật của đảng chúng tôi!". Những câu hỏi của tôi có thêm là:

- Cứ cho rằng các anh sẽ thành công, thế thì định hướng và lộ trình tái xây dựng xã hội Việt Nam của tổ chức của các anh là gì?

- Những nhân sự đầu não của các anh cho những lĩnh vực trọng yếu của một hệ thống nhà nước mới sẽ là ai, hoặc tổ chức của các anh sẽ chuẩn bị như thế nào?

Khi đó, tôi nhận thức rõ sự trống rỗng cực kỳ đáng sợ của sự thiếu chuẩn bị của họ. 

Điều thê thảm nhất là không những họ chuẩn bị quá sơ sài trong giai đoạn họ "đấu tranh" mà tận cùng họ chẳng chuẩn bị gì cho ra hồn việc sau đó nếu họ thành công.

Và tất nhiên, họ cũng đã thất bại, thất bại ngay từ trong trứng nước.

Khi đó, nỗi buồn của tôi vẫn cứ còn đó, nhưng tôi đã phần nào hiểu tại sao…

-----

Rồi những năm sau đó, những tổ chức chính trị chống CSVN, chính là ở nước ngoài, đều có những hình thức tổ chức có "bài bản" hơn nữa, họ đưa ra những cương lĩnh, những định hướng, và ngay cả những nhân sự cấp lãnh đạo cho từng lĩnh vực trọng yếu. 

Nhưng nếu nhìn kỹ thì mọi điều họ chuẩn bị cho giai đoạn "đấu tranh" đều chỉ nằm ở mức "rộn ràng" ở nước ngoài và cực kỳ "lẻ tẻ" ở Việt Nam. Họ không những lấy được rất ít sự đồng thuận và ủng hộ của xã hội ở trong nước mà còn có rất nhiều cách "vận động" để nổi tiếng một cách vô trách nhiệm. 

Và nếu nhìn kỹ hơn, sâu hơn về những "nhân sự cấp lãnh đạo" của họ thì quả thật là cá nhân tôi phải… đầu hàng!

Khi đó, chừng giữa thập niên 1990s, các câu hỏi tôi đặt ra lại là:

- Liệu việc tổ chức và hoạt động của những đảng phái chính trị ở hải ngoại không quan trọng bằng chính những tiếng nói của lương tâm từ các cộng đồng người Việt ở hải ngoại và những vận động của họ đối với cộng đồng thế giới sẽ giúp Việt Nam hiệu quả hơn?

- Liệu những sức ép từ chính xã hội trong nước qua những tiếng nói, những phản đối, những tiếng kêu oan… của người dân, của những hội đoàn, những nhóm người khác nhau, hoàn toàn phi chính trị, lại là sức mạnh quan trọng nhất để thay đổi thể chế của Việt Nam, chứ không phải từ những tổ chức thuần chính trị?

- Liệu một tổ chức chính trị nào đó được xã hội ủng hộ và thành công thì chính tổ chức chính trị này lãnh đạo Việt Nam thời hậu CS sẽ xây dựng thành công một nền dân chủ đúng mức hay không? Hoặc họ sẽ phải bảo vệ vị thế lãnh đạo của họ vì họ đã chiến thắng, và từ đó xã hội mình lại phải tiếp tục khổ sở với một loại "dân chủ trá hình" khác? Điều gì bào đàm cho tương lai của cả 1 đất nước?

- Và liệu một giai đoạn chuyển tiếp vài năm của một liên minh lâm thời bởi những tổ chức, cá nhân, ngay cả hoàn toàn phi chính trị, để tạo dựng một guồng máy dân chủ cũng như tạo cho các đảng phái chính trị tiềm năng có thời gian và cơ hội chuẩn bị để tham gia ứng cử nhằm bảo đảm xã hội có một nền dân chủ thực tế, và nhằm tránh sự rủi ro của một loại dân chủ "giả hiệu" như một số nước đã trải vì 1 đảng phái chính trị tiếp nhận quyền lực cai trị đất nước từ đầu?

Với nhận thức này, càng ngày tôi càng thấy rõ hơn giá trị của những sự chuẩn bị cẩn thận và kỹ lưỡng của tự mỗi người dân, những người mà tự họ đánh giá là có tài năng và đạo đức, những sự chuẩn bị cần thiết của những tổ chức chính trị ở nước ngoài, và những sự chuẩn bị thật cho tìan của các nhóm trong nước có ý định xây dựng những tổ chức chính trị trong nước.

Và khi đó, tôi hiểu rõ là tại sao tôi lại buồn kéo dài đến gần 20 năm, và tới nay đã hơn 35 năm…

Buồn vì những tổ chức chính trị này rất thiếu chuẩn bị, rất thiếu trách nhiệm, nhưng luôn tự cho mình là có những sự chuẩn bị chu đáo, là vô cùng có trách nhiệm với xã hội, và nhất là luôn cho mình là những nhóm đại diện cho "lòng yêu nước", được "dânt ộc giao phó", được "tổ tiên ủng hộ"…

-----

Vậy đó, những nhận thức của tôi phát triển và thay đổi theo thời gian tôi học hỏi, tìm hiểu, suy gẫm, so sánh, đánh giá, và tự vấn mình từ khi mới 19 tuổi cho đến nay là như vậy.

Biết đâu, trong vài năm nữa tôi lại nhận thức thêm được những điều mới khác nữa để bổ sung hay thay đổi những gì tôi đang biết… vâng, biết đâu?


BLOG BÙI VĂN BỒNG

* TÔ VĂN TRƯỜNG

 Trước thực trạng giao thông "hỗn loạn" tai nạn kinh khủng của đất nước, mỗi năm cướp đi sinh mạng của khoảng 12 nghìn người (tương đương với quân số 1 sư đoàn) gây nên  thảm cảnh đau thương cho biết bao gia đình. Những người có trách nhiệm lại mới có "sáng kiến" đưa ra dự thảo để tham gia thi lấy bằng lái ô tô, xe máy, người dân cần phải vượt qua hàng chục tiêu chuẩn về sức khỏe, trong đó có tiêu chuẩn muốn cấp giấy chứng nhận sức khỏe để lái xe máy 50 phân khối  trở lên (bằng lái A1,B1)  thì bộ ngực phải đảm bảo có số đo không dưới 72 cm...

Vậy, tai nạn tại 'bộ ngực' chứ không phải 'bộ chủ quản' hay 'bộ liên quan'!? Hóa ra, thơ Tố Hữu trong bài "Huế tháng Tám" lại vận vào đúng tháng Tám này:
" Ngực lép bốn nghìn năm
Trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên ..
Tim bỗng hóa mặt trời"

Những câu thơ hào sảng ấy  phải chăng chỉ ra cho Bộ Y tế và Bộ Giao thông Vận tải hiện thời có "cơ sở" luận giải  thì chính những bộ "ngực lép" đã có sức lay trời, chuyển đất làm nên những sự kỳ diệu cho đất nước. Mà ở đây, "ngực lép" cũng được hiểu theo đúng nghĩa đen, khi những người nông dân gày còm, ốm yếu vừa ôm ngực, vừa lao lên cướp súng giặc, diệt giặc cứu nước.

Ấy vậy, mà ngày nay một số hậu duệ  của những người "ngực lép" năm xưa lại không muốn cho những người "ngực lép" thời nay sử dụng một trong những vật dụng khiêm tốn của thời hiện đại là chiếc xe máy! Thế mới nên chuyện. Ngực lép hay phồng là do thực thể của mỗi người, dòng giống và điều kiện sống nữa. Những tầng lớp người dân nghèo khổ làm sao có bộ ngực nở nang để được quyền đi xe máy? 

Nhìn ra thế giới, người đẹp Hollywood Angelina Jolie đã hy sinh bộ ngực đẹp của mình để phòng chống bệnh ung thư, vậy mà cô nàng vẫn ung dung được phép  lái xe ở ngay nước Mỹ và ở nhiều nước khác. Cô đã có biện pháp 'dứt điểm' để phòng thủ và hạn chế tối đa khả năng tai nạn ung thư cho bản thân mình bằng cách chọn phương án 'ngực lép'.

Còn phương án ngăn cản người 'ngực lép' không được cầm lái liệu có tác dụng gì cho chúng ta giảm tai nạn giao thông ở nước ta hay không? Tai nạn giao thông xảy ra luôn luôn là tổng hợp rất nhiều các yếu tố không may xảy ra cùng một lúc, có các yếu tố bất ngờ và cả yếu tố phân tâm của lái xe,  yếu tố do chất lượng cầu đường, ánh sáng, độ thông thoáng, tình trạng tâm lý, và có không ít chi phối bất ngờ do may rủi…

Tai nạn giao thông ở nước ta vào hàng cao nhất trên thế giới, nhưng đã có những giải pháp gì để giảm bớt tai nạn? Trong quy hoạch giao thông, điều đặt ra đầu tiên là làm sao giúp cho người cầm lái được thuận tiện nhất, có tầm nhìn rộng nhất, có diện tích lòng đường để xoay sở tối đa, đạt được sự tập trung cao nhất ở các điểm nút, tiếng Anh dùng cụm từ rất dễ hiểu là "user-friendly". Còn nhìn cách của chúng ta thì rất sợ, vì hình như chúng ta không lấy an toàn của con người là trọng tâm của giao thông. Thấy rõ cách quy hoạch và thu xếp giao thông của chúng ta đang tiềm ẩn bao nhiêu hiểm hoạ, mà con người sử dụng giao thông dù có biết là nguy hiểm đó mà cũng khó tránh vì hạ tầng giao thông nó là như vậy rồi.

Ngành giao thông  nước ta bỏ ra bao nhiêu tiền để xây đường, khi công bố lưu thông, là đạt tốc độ 100 km/giờ thế nhưng tốc độ tối đa lưu thông thực tế vẫn chỉ cho 40 hay 50 km/giờ.

Ngực to,  ngực nhỏ quả là cách nghĩ khiên cưỡng của những người có trách nhiệm lập ra quy định.  Phải xây dựng quy tắc, quy định và luật trên cơ sở an toàn và lợi ích của con người. Trong việc cấp giấy phép lái xe không hề có việc giáo dục người lái xe quy tắc ứng xử trong giao thông, mà chỉ là những quy định đi đường máy móc và "não trạng có vấn đề" như vấn đề ngực to, ngực lép.

Quy tắc ứng xử trong giao thông có việc phải giao lưu bằng mắt với những đối tác (các xe khác đang giao thông)  để hiểu ý nhau để cùng nhau di chuyển an toàn. Quy tắc ứng xử cũng bao hàm việc phải có ý thức nhường nhịn nhau trên đường. Không phải cứ cầm lái là sẵn sàng vào trận 'tao phải, mày trái' mà là vì sự an toàn cho chính mình và cho những người khác. Rất hiếm khi thấy người cầm lái chạy chậm lại để cho người ta qua đường, hoặc cho xe khác rẽ phải, rẽ trái. Phổ biến là vọt lên như đe dọa khách bộ hành, và vọt lên để cắt cúp trong các lối rẽ, là hành vi 'ma lanh' chỉ vì mình, mà không hề có sự cân nhắc gì tới sự an toàn giao thông chung, trong đó có vấn đề an toàn cho chính họ.

Quy tắc ứng xử cũng phải có cả việc cấm tình trạng dùng còi để thể hiện 'ý chí' của người cầm lái. Việc dùng còi đã đến mức không thể nào chịu nổi, là đề tài cho khách du lịch tới ViệtNam tha hồ bình luận, là sự khác người 'ta chẳng giống ai' mà chưa có những biện pháp cơ bản để khắc phục. Gần đây, đã có những chiến dịch , những phong trào, huy động thanh niên tình nguyện giăng biểu ngữ 'xin' mọi người bớt còi, có cảnh sát phạt xe còi to trong thành phố, mang lại những tác động rất tốt. Nhưng phong trào đến rồi phong trào đi, sau một thời gian rồi đâu lại vào đấy. Đáng lẽ việc dùng còi như thế nào cũng phải được cho vào thành một phần của việc cấp bằng lái.

Ô nhiễm tiếng ồn đã là một vấn đề được thế giới quan tâm, nhưng trong các quy tắc quy định và biện pháp thực thi của chúng ta không cho thấy chúng ta có giác ngộ vấn đề này. Ngay trong vấn đề đào tạo, huấn luyện để cấp phép cho người lái taxi cũng vô cùng khiếm khuyết, họ phải qua kỳ thi trả lời các câu hỏi về 'Mác Lê" (cho đúng phép áp dụng với cơ sở đào tạo),  ít được giáo dục về ứng xử như là một người cung cấp dịch vụ. Vì họ học lý thuyết như vẹt nên những điều quan trọng trong điều lệ giao thông cũng thành trò cười 'biết chết liền" tức là họ chẳng cần biết, miễn sao có cái bằng lái để xin được việc là xong. Đáng lẽ ra,  họ phải được giáo dục để thực sự là những 'đại sứ du lịch', vì hỏi có khách nào tới VN mà không dùng taxi? 

Nếu nhìn vào bức tranh giao thông của VN thì còn nhiều bức xúc lắm, nhưng thật khó tin thấy có ai giàu trí tưởng tượng đến mức coi vấn đề ngực to, ngực lép lại là bức xúc hàng đầu được quy định luật pháp phải ưu tiên quan tâm!!!

Thế hóa ra:
"Năm xưa ngực lép đã phồng
Mà nay nghèo khó nên không thấy gì
Hóa ra đất nước thịnh suy
Cứ nhìn bộ  ngực ắt thì biết ngay
Hóa ra tai nạn mỗi ngày
Chỉ do ngực lép làm tay lái quảng
Sinh ra quy định trái ngang
Cho anh bơm ngực giúp nàng lái xe"
He…He…!
TVT

---------------
(Bản gốc của tác giả gửi BVB)


BLOG NGƯỜI BUÔN GIÓ
Thứ ba, ngày 27 tháng tám năm 2013

Ngày bé tôi nghe các đàn anh kể những chuyện khốc liệt trong nhà tù. Những trận đòn, biện pháp hành hạ, tra tấn và khủng bố của các tù nhân với nhau. Thường là tù trách nhiệm ( một dạng tù chỉ huy do cán bộ trại giam chỉ định ) với các tù nhân khác, đôi khi là trực tiếp quản giáo tham gia cuộc đánh đập.

 Và những thủ đoạn tra tấn muôn vàn màu sắc như trói treo phơi nắng hè, ngâm mình dưới ao mùa đông. Đòn đánh vào hai bên mạng mỡ hoặc hai bên hông thắt lưng để om thận, đòn úp bàn tay vỗ vào tai cho chấn thương âm màng nhĩ. Kiểu ngồi bó gối dẫn đến tê liệt chân....

Những câu chuyên đó không phải ở thời kỳ nhà tù thực dân, mà thời mà cách mạng đã thành công, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại vinh quang đời đời. Chuyện như thế xảy ra ở nhà tù Phong Quang, Quyết Tiến, Cổng Trời, Yên Hạ, Kế, Phú Sơn, Lam Sơn, Thanh Lâm, Thanh Cẩm, Kỳ Sơn, Thanh Chương, Tân Lập, Thanh Xuân, Văn Hòa, Kim Chi, Thủy Nguyên....những nhà tù mà sau này tôi đã đến, đã ở , đã đi qua tùy trong hoàn cảnh khác nhau.

Định mệnh dường như gắn tôi với nhà tù từ nhỏ, 4 tuổi bám áo mẹ đi thăm bố, 13 tuổi cùng anh đi thăm bố, lớn đi thăm bạn bè, anh chị em. Rồi nhiều lúc chính mình lại ở tù cho người khác thăm. Bạn bè tôi tù nhiều lắm, bởi tôi sinh ra và lớn lên ở tận cùng của xã hội, chuyện nhà tù dính đến nhiều cũng là điều không có gì khó hiểu.

Thật kỳ lạ về trí nhớ của con người. Ký ức mà tôi nhớ được xa nhất lại là hình ảnh mẹ tôi làm bánh mỳ tẩm đường và dẫn tôi vào thăm bố ở nhà tù Hỏa Lò, lúc đó tôi mới tầm 4 tuổi. Chính vì ký ức này tôi còn nhớ được, nên khi con trai tôi mới 3 tuổi, tôi đã phải để ý kỹ sao cho cháu tránh được những điều không đáng thấy, hay không nên thấy. Năm con tôi 4 tuổi, tôi bị bắt vào tù vì điều 258. Ngày về con tôi nhảy lên bá cổ bố ngay từ cửa, cháu thốt rằng.

- Bố Hiếu đây , nhưng mùi không phải là mùi bố Hiếu.

Vâng, cái đó người tù gọi là mùi tù, mùi tù chỉ có người nào đi tù mới hiểu. Năm 2010 người đàn ông trí thức tôi gặp ở Berlinh tháo cặp kính trắng ra, lau mắt nghẹn ngào nói về mùi tù. Anh từng bị giam giữ 10 tháng tù ở Việt Nam vì những tư tưởng của mình. Ấn tượng về nhà tù còn đọng lại với cả những người đàn ông phong trần từng trải. Huống chi là đứa trẻ ngây thơ. Tôi vẫn kể cho con trai tôi nghe ở nhà tù bố được đối xử tốt, công an cũng tốt, họ nghi ngờ thì họ giữ bố để xem đúng bố phạm tội không, chẳng phải thì họ cho bố về. Cháu vui lắm, cháu kết luận rất hồn nhiên.

- Thế là công an bắt bố, thấy bố không có tội họ lại cho bố về với con. Công an làm thế cũng được.

Gần hai mươi năm trước đây, tôi từng chịu cảnh bị trói treo, đánh vào mạng mỡ, vào tai, bị cùm xích ròng rã 15 ngày, bị biệt giam...tôi mới nhận ra những điều mà các đàn anh đi trước kể cho tôi hồi nhỏ về những gì diễn ra trong nhà tù là sự thật.

Gần hai mươi năm sau, tôi bị bắt nhiều lần, ở gần như khắp mọi miền đất nước bởi những người an ninh. Lý do bắt thật bất công. Nhưng điều kiện bị giam giữ không có gì đáng phàn nàn, thái độ của người canh giữ cũng tốt.Nhưng thứ đó làm tôi cảm giác mọi thứ có một số điều đã tốt hơn.

 Tuy nhiên đó chỉ là những thời gian ngắn ngủi, và những người canh giữ là không phải là quản giáo chuyên nghiệp và nơi giam giữ chưa hẳn là trại tù thực sự. 


Hôm nay theo dõi câu chuyện về nữ tù nhân Đỗ Thị Minh Hạnh. Tôi đọc lời kể của người thân cô, nhìn tấm hình cô chụp trước đến nay.

Tấm hình trước kia không son phấn, nhưng toát lên vẻ trẻ khỏe, sung mãn đầy sức sống. Tấm hình sau dù Đỗ Thị Minh Hạnh gắng trang điểm thế nào, cũng chẳng dấu nổi vẻ tiều tụy, ôm đau, đôi mắt và nét mặt gắng bình thản nhưng người tinh tế vẫn nhận ra những gì khốc liệt mà cô đã chịu đựng trong nhà tù.

Thương lắm những người tù nữ. Mỗi lần đi gặp người thân, họ mượn nhau bộ quần áo tươm tất, xin nhau chút son phấn, họ trang điểm cho nhau trước lúc gặp gia đình. Với mong muốn gia đình nhìn thấy mình không đau khổ , không tiều tụy. Dù ở hoàn cảnh như vậy họ vẫn có dấu đi những gì sẽ khiến người thân đau lòng, vẫn muốn an ủi người thân bằng cách che đậy đi những gì mình phải chịu đựng.

Khi trước ở trong tù, được làm phục vụ cho đội trưởng đội quản giáo. Nhiều lần đi qua song sắt khu giam nữ. Tôi phải dừng lại nghe những tiếng van xin.

- Hiếu ơi, chị bị thu gương lược rồi, Hiếu lấy lại giúp chị đi.
- Tù rồi cần gì đẹp hả chị, ai ngắm đâu, lấy bị phát hiện thì em toi.

Tôi định dợm bước đi, người tù nữ vọng ra tha thiết.

- Em ơi, làm đẹp để chồng mình nó gặp, nó thấy mình không xấu, nó còn chờ, còn đi tiếp tế cho mình em ơi.

Người khác nói với theo.

- Làm đẹp chút, cho mẹ mình nhìn không xót em à.

Cái câu của người tù nữ nói với theo, khiến tôi không thể cầm lòng. Tôi  rình lấy chìa khóa kho của quản giáo để lấy gương, lược và cả nhíp sắt nhổ lông mày cho các chị. Thậm chí thấy giấy bút tôi còn tiện tay khua nốt để khuyến mại cho các chị luôn.

 Đằng sau những lớp phấn vụng về, nét son thô kệch là bao nhiêu nỗi đau muốn che dấu. Những chị em nào đọc được dòng này, nhìn cách trang điểm của Đỗ Thị Minh Hạnh, chắc hiểu được vì sao cô ấy trang điểm không được như xã hội, điều kiện nhà tù được như thế là một nỗ lực rất lớn. Và xót xa hơn nữa, chúng ta hiểu được vì sao cô ấy cố gắng điểm trang.

Hai mươi năm trước nữa là thời gian tù của những đàn anh kể cho tôi, rồi đến lượt tôi. Rồi hai mươi năm sau này nữa đến lượt Đỗ Thị Minh Hạnh. Cảnh trói treo, đánh mang tai, đánh mạng sườn ...vẫn còn diễn ra đằng sau những cánh cổng trại giam. Không tránh ai cả, từ tên tù ngỗ ngược xăm trổ đầy mình đến cô gái trong trắng vì niềm thương yêu đối với đất nước, niềm xót xa cho những thân phận người công nhân phải vào tù và chịu đựng cảnh hung tàn đó.

O ép từ miếng ăn, nước uống, điều kiện vệ sinh, khủng bố tinh thần, đánh đập dã man một cô gái đang chịu án tù vốn dĩ đã đầy oan ức.

Chả lẽ sự tàn bạo trong nhà tù Việt Nam vẫn muôn năm như vậy . Chả lẽ những người quản giáo trại giam, đảng viên ĐCS cũng muốn sự bạo tàn này được duy trì mãi mãi như ước mơ của họ qua khẩu hiệu ĐCSVN quang vinh muôn năm.? Nước CHXHCN Việt Nam muôn năm, chủ tịch HCM vĩ đại muôn năm.

Vậy để tôi cùng hô với các bạn.

Sự tàn bạo muôn năm.!


BLOG ĐÀO TUẤN

Dù rất cảm động trước sự cảm động của Bộ trưởng khi ông đọc những bức tâm thư lấm lem mồ hôi nước mắt của người trồng lúa. Nhưng nông dân chưa nhìn thấy "con gì cây gì", chưa thấy lối thoát trong câu trả lời của ông, thưa Bộ trưởng Phát

Hồi đầu tháng 8, một nông dân ở Long An gửi một bức tâm thư tới Bộ trưởng Cao Đức Phát với một câu hỏi, cũng là nỗi khắc khoải của nông dân cả nước: Xin Bộ trưởng hãy chỉ cho dân trồng cây gì và nuôi con gì.

24 năm bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, người nông dân khốn khổ ở Long An chỉ học được một bài học là hạt lúa "chỉ giúp nhà nông không đói, chứ không làm họ hết nghèo". Bởi ngay khi nông dân đạt thành tựu 8 tấn/ha thì trong khi những người chồng thất thần cân lúa, những người vợ, giờ đã là "chị ba tám tấn" ngồi ghi sổ mà nước mắt tràn trụa. Càng được mùa càng rẻ. Càng nhiều tấn càng lỗ. Càng cấy nhiều càng nghèo.

Nhưng câu hỏi của người nông dân thực ra hoàn toàn không phải là cây gì, con gì, bởi nó đang đề cập đến vấn đề lớn nhất của cả nền nông nghiệp mà cựu Bộ trưởng Lê Huy Ngọ đã dùng hai chữ "khuyết tật". Chính xác là một nền nông nghiệp khuyết tật khi "Sản xuất ra sản phẩm không biết bán cho ai, không biết thị trường của mình ở đâu". Và một nền nông nghiệp khuyết tật đến nỗi "khối im lặng khổng lồ" bỏ ruộng ở khắp nơi như một lời tố khổ thầm lặng.

Bởi thế, câu trả lời của Bộ trưởng Phát trong chương trình dân hỏi nhà nước trả lời được sự chờ đợi của nông dân, của những người quan tâm đến số phận của họ.

Và đây là tất cả những gì Bộ trưởng có thể nói, với một giọng nói buồn thảm và không có lấy một nụ cười:
"Nguyên nhân nông dân bỏ ruộng là do thời gian gần đây giá vật tư nông nghiệp tăng cao, trong khi giá đầu ra của nhiều loại nông sản xuống thấp".

"Việt Nam vẫn duy trì quỹ đất lúa, tuy nhiên trên đất lúa bà con vẫn có thể chuyển đổi sang trồng những cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Bộ đang rà soát để quy hoạch lại cây trồng trên đất lúa, tùy theo tình hình của từng địa phương sẽ lựa chọn những cây trồng phù hợp". Cây ngô chẳng hạn.

Và, theo một đề án nào đó, thu nhập của nông hộ sẽ "tăng gấp 2,5 lần". Chỉ có điều, đó là điều xảy ra trong thì tương lai 2020, khi Bộ trưởng có lẽ đã về hưu, và thậm chí, lại rạch ròi chỉ ra những "khuyết tật" của nền nông nghiệp.

Thật buồn. Tư lệnh ngành nông nghiệp chỉ nhìn thấy sự mất cân đối đến khủng hoảng giữa đầu vào và đầu ra, điều mà bất cứ nông dân nào cũng nhìn thấy. Thế còn giá gạo "cuối bảng xếp hạng"? Thế còn lợi nhuận trung túi trùng trùng tầng lớp trung gian từ tư thương đến công thương? Thế còn con gì, cây gì, khi hạt ngô ở vương quốc Ngô Sơn La có những khi đỏ bầm màu máu.

Năm 2008, sau khi loạt điều tra của NTNN công bố con số chấn động "Một hạt thóc 40 khoản đóng góp", Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định bãi bỏ hàng loạt khoản phí nhằm giảm gánh nặng cho người dân, trong đó có thủy lợi phí.

Năm 2013, số khoản phí, ngoài vô số các loại thuế, mà mỗi hạt thóc, củ khoai, con lợn, con gà phải gánh, là "từ 20-50" tùy từng địa phương, và trong đó có thủy lợi phí.

Liệu có ở đâu, có nền nông nghiệp nào mà một quả trứng, có khi phải chịu 3 lần phí kiểm dịch?!

Còn chuyển đổi vật nuôi cây trồng ư? Giải pháp đó nó cổ như những giai thoại từ cả chục năm nay xung quanh vẫn chỉ là chuyện "trồng cây gì, nuôi con gì".

Dù rất cảm động trước sự cảm động của Bộ trưởng khi ông đọc những bức tâm thư lấm lem mồ hôi nước mắt của người trồng lúa. Nhưng nông dân chưa nhìn thấy lối thoát, thậm chí, chưa nhìn thấy con gì cây gì trong câu trả lời của ông, thưa Bộ trưởng Phát.


BLOG NGUYỄN QUANG VINH

Báo chí mấy hôm nay đưa tin với thái độ phản ứng gay gắt lương của giám đốc công ty thoát nước đô thị tp Hồ Chí Minh( 2,6 tỉ đồng/ năm), lương của giám đốc công ty chiếu sáng công cộng tp Hồ Chí Minh ( 2,2 tỉ đồng/ năm) và nhiều mức lương khủng khác của các thành viên Hội đồng quản trị công ty Nhà nước này. Trong khi đó, công nhân lao động với cường độ làm việc cay cực, lương chỉ vài triệu bạc tháng. Đây như là điển hình cao độ về cái lũ quan lại " ngồi mát ăn bát vàng", bòn rút của công, đặc quyền đặc lợi...

Này chúng mày, ăn như vậy là ăn ngập miệng quá, ăn không thèm chùi mép, ăn không thèm giấu diếm, ăn trơ, ăn cướp, mà cướp công khai, ký nhận trong sổ đàng hoàng, cướp như thế gọi là cướp tởm.

Này chúng mày, chúng mày đã biến một công ty độc quyền của Nhà nước thành công ti đặc quyền chia chác của chúng mày, chia chác bằng tiền thuế của nhân dân, chia chác trên mồ hôi nước mắt của công nhân, chia như thế gọi là chia bẩn.

Này chúng mày, chúng mày ăn công khai mà như thế thì ăn vụng, ăn trộm, ăn bớt, ăn xén nó là bao nhiêu, chắc chắn là hơn nhiều nhỉ? Nhỉ? 

Chỉ cần nhìn vào cách chia lương, cướp tiền ngân sách như vậy đã đủ yếu tố để khởi tố một vụ án tham nhũng, chứng cứ sờ sờ ra thế còn ở đâu nữa, sao tới giờ, phát hiện ra rồi, thành phố Hồ Chí Minh còn không đình chỉ công tác các chức danh, còn không chỉ đạo khởi tố vụ án Lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tiền Nhà nước?

Còn chờ gì nữa?

Chúng mày ăn tiền dân như thế, ngập miệng ngập mồm, lòi má trợn mắt như thế thì hiển nhiên là nhà nước rót tiền mãi có khắc phục được tình trạng ngập lụt đâu, khắc phục sao được, khi hàng chục cái miệng vểu ra hớp tiền dân hàng ngày, hàng tháng, hàng năm như vậy.

Hả?

Hoàng Xuân Phú : Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp

Nguồn boxitvn

Hoàng Xuân Phú

cũng chỉ là con dân

mà xưng là thiên tử

Có lẽ không điều khoản nào của Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lại được bàn cãi nhiều bằng Điều 4. Một bên thì cương quyết bảo lưu, bên kia lại muốn loại bỏ nó ra khỏi Hiến pháp. Nội dung mà hai bên thường đề cập là duy trì hay không việc hiến định quyền lãnh đạo đương nhiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nhưng đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Để tìm hiểu thêm phần tiềm ẩn, ta hãy đọc lại Điều 4 Hiến pháp 1992 và cùng nhau suy ngẫm:

"Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."

"Đội tiên phong" là gì vậy? Nghe mãi đâm quen, thấy oai oai, nhưng thực ra nó là cái gì? Trong ngôn ngữ thông dụng, cái từ này thường chỉ "đạo quân ở vị trí đi đầu để ra mặt trận". Thời xa xưa, khi còn đánh nhau bằng cơ bắp và vũ khí thô sơ, cả đạo quân ngàn vạn người cũng chỉ trông cậy vào võ nghệ của mấy vị tướng đầu quân, thì cả tướng lẫn quân của "đội tiên phong" cũng chỉ là thuộc hạ để nhà vua sai bảo. Ngày nay, lãnh đạo cao nhất lại càng cố thủ ở hậu phương, chứ không "tiên phong" ra mặt trận. Nếu vậy thì oai cái nỗi gì, mà lại gán cho đảng cái cương vị hạng hai, hạng ba, mà đôi lúc còn bị dùng để "thí tốt"?

Nếu cố gán cho từ "đội tiên phong" nội dung "thành phần ưu tú, đóng vai trò đầu đàn, đưa đường chỉ lối", thì lại nảy sinh câu hỏi: Một đảng mà đa số đảng viên và hầu hết lãnh đạo cấp cao đều không phải là công nhân, thì có thể coi là "đội tiên phong của giai cấp công nhân" hay không? Người của giai cấp công nhân –vốn được lý luận chính thống của ĐCSVN ngợi ca là ưu tú và cách mạng nhất – đi đâu cả, mà lại để cho cái hội thuộc giai cấp hay tầng lớp kém tiến bộ hơn xông vào choán hết "đội tiên phong" của mình?

Không chỉ được mệnh danh là "đội tiên phong", ĐCSVN còn được coi là "đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc"Tại sao lại ghi những thứ đó vào Hiến pháp?Hiến pháp là văn bản pháp lý gốc của cả Nước, của toàn bộ Nhân dân, để hiến định các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất, chứ đâu phải là cuốn sử ca của riêng ĐCSVN để ghi vào đó những lời tự phụ?

Vấn đề đáng bàn hơn là: Liệu những khẳng định kiểu đó có đúng hay không? Dù hào phóng giả định rằng hiện tại chúng đang đúng, thì lấy gì để đảm bảo rằng trong tương lai chúng vẫn còn đúng? Đã là Hiến pháp thì phải có hiệu lực lâu dài. Cho dù không tin vào sức sống của sản phẩm do mình tạo ra, thì chắc hẳn các tác giả Hiến pháp cũng hy vọng rằng nó sẽ tồn tại được vài chục năm. Vậy thì tại sao lại tùy tiện khẳng định hay liều lĩnh bảo lãnh phẩm giá của cả đội ngũ cầm quyền mấy mươi năm sau, những người mà các tác giả Hiến pháp không thể đoán trước sẽ là ai, sẽ cầm quyền thế nào và trong hoàn cảnh ra sao?

Cho đến nay, biết bao sự kiện bí ẩn và hành xử khó hiểu đã và đang xảy ra, đặc biệt là trong quan hệ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc, kết hợp với tệ nạn tham nhũng và cướp đất tràn lan, khiến nhiều người phải đặt ra câu hỏi: ĐCSVN (nói chính xác hơn là lãnh đạo của ĐCSVN) có còn trung thành với quyền lợi của Nhân dân và Dân tộc nữa hay không? Đối với không ít người thì câu hỏi cũng chính là câu trả lời. Nếu muốn, giới cầm quyền có thể thông qua hành động thực tế để xóa bỏ nghi ngờ và chứng minh điều ngược lại. Thế nhưng, tại sao lại lạm dụng Hiến pháp để "công chứng" cho cái phẩm hạnh đang bị nghi vấn, và bắt Nhân dân phải mặc nhiên thừa nhận lòng trung thành của giới cầm quyền hôm nay và cả mai sau?

Giả sử ĐCSVN luôn thực sự là "đội tiên phong…" và "đại biểu trung thành…", thì điều đó đã đủ để Nhân dân trao quyền "lãnh đạo Nhà nước và xã hội" hay chưa? Vẫn còn có nhiều "đại biểu trung thành" khác, thìtại sao lại chỉ trao quyền lãnh đạo cho một đại biểu duy nhất? Hơn nữa, giữa quyền lãnh đạo và tính tiên phong cộng với lòng trung thành là một khoảng cách xa vời, hai cái đó không nhất thiết là hệ quả của nhau. Chẳng hạn như Cún con, khi ra đường thì hay lon ton lên trước (nghĩa là rất "tiên phong"), và ít ai trung thành với chủ hơn Cún, nhưng chẳng vì thế mà Cún lại được chủ trao cho quyền lãnh đạo… gia đình. Rõ ràng, hai mệnh đề nhầm chỗ đó không đủ để biện minh cho quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN. Ngược lại, cái "hư hư thực thực""hư" đến mức bất chấp cả "thực", đã làm suy giảm tính nghiêm túc và tính hợp lý của Hiến pháp. Vậy thì cưỡng nạp những mệnh đề vu vơ ấy vào Hiến pháp để làm gì?

*

*      *

Nếu quan niệm rằng hai đặc tính "đội tiên phong…" và "đại biểu trung thành…" là đòi hỏi, là điều kiện cần cho quyền "lãnh đạo Nhà nước và xã hội", thì Điều 4 cần được hiệu chỉnh cho chuẩn xác về mặt lô-gíc, chẳng hạn như sau:

"Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, … thì mới là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội."

Hoặc hoán vị đoạn cuối lên đầu và dùng chữ "để" thay cho hai chữ "thì mới":

"Để là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…"

Đó là hai phương án hiệu chỉnh lô-gíc kinh tế nhất, chỉ thêm ba hoặc bốn chữ và giữ nguyên các thành phần khác. Kể cả trong trường hợp thừa nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN như một thứ đương nhiên, bất chấp hiện trạng của đảng, thì cũng nên viết lại như sau:

"Đảng cộng sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc."

Dù chọn phương án nào thì cũng cần thêm chữ "phải", để nhấn mạnh rằng: Đó là đòi hỏi mang tính pháp lý mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Liệu giới cầm quyền có muốn viết như vậy hay không? Chắc là không! Vậy thì nội dung về "đội tiên phong…" và "đại biểu trung thành…" trong Điều 4 không phải là đòi hỏi, mà mang ý nghĩa "thừa nhận một thực trạng đã, đang và sẽ mãi tồn tại", tức là một hình thức "công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản".

Vấn đề tương tự được đặt ra với khoản tiếp theo của Điều 4, viết rằng:

"Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."

Đây có phải là một yêu cầu, một đòi hỏi hay không? Nếu là đòi hỏi thì cần bổ sung một chữ "phảinhư sau:

"Mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."

Câu hỏi nảy sinh là: Tại sao lại thiếu chữ "phải" tại vị trí quan trọng như vậy? Có phải do vô tình hay không?

Muốn hiểu được ý tứ của các tác giả, hãy điểm mặt 39 chữ "phải" trong Hiến pháp 1992 để nhận ra rằng: Từ "phải" là một trong những thuật ngữ đặc trưng trong Hiến pháp, thường được dùng để chỉ những điềubắt buộc phải thực hiện. Ví dụ:

"Điều 51 … Công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội…"

"Điều 76 Công dân phải trung thành với Tổ quốc…"

"Điều 77 … Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân."

"Điều 100 Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…"

"Điều 122  Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn... Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định…"

Tại sao không viết tương tự, mà lại tránh dùng chữ "phải" trong Điều 4? Nếu quan niệm rằng chỉ cần viết

"Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"

là đã hàm chứa chữ "phải", do đó có thể lược bỏ nó, thì sao không bỏ nốt chữ "phải" trong những trường hợp cũng "đã hàm chứa" tương tự? Chẳng hạn, sao không bỏ chữ "phải" trong hai điều khoản sau đây:

"Điều 115  … Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số."

"Điều 124  … Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số…"

Để hiểu hết thâm ý chứa trong Điều 4, nên so sánh nó với điều khoản sau:

"Điều 12  … Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…"

Vâng, không chỉ "các… tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân", mà cả"các cơ quan Nhà nước" đều "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật". Nhưng ĐCSVN và các tổ chức của đảng thì không bị liệt kê trong Điều 12, tức là chúng không nằm trong diện "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật".

Điều 4 chỉ viết là: "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". Khi đã ngăn chặn việc ban hành luật về các đảng chính trị hay luật dành riêng cho ĐCSVN, thì chẳng hề tồn tại "khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" nào có thể khống chế và ràng buộc đảng. Vậy là ĐCSVN được mặc sức tung hoành. Hơn nữa, giả sử có ràng buộc pháp luật nào đó liên quan, thì ĐCSVN cũng không nhất thiết phảituân theo, bởi vì câu hiến định "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"không nhất thiết là một đòi hỏi, mà ngược lại, rất có thế là một hình thức "công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản", cũng tương tự như việc "công chứng" cho đặc tính "đội tiên phong…" và "đại biểu trung thành…" mà thôi.

Hẳn là đạo diễn của Hiến pháp 1992 đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, và cố tình không cho "diễn viên" tên "phải"lạc vào "màn kịch" Điều 4, để tạo ra một "hoạt cảnh thực thực hư hư""nói dzậy mà không phải dzậy". Cái tinh vi ấy được kế thừa trọn vẹn trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 (được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 02/01/2013) và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 (được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIII, ngày 17/05/2013). Chưa thỏa mãn với đặc quyền vô biên đã có, người ta đã sửa câu

"Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật"

trong Hiến pháp 1992 thành

"Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."

Hạ cấp từ chữ "Mọi" xuống chữ "Các", phải chăng là cố chừa ra thế lực bất khả xâm phạm? Tuy trong phương án sửa đổi có bổ sung thêm đối tượng "đảng viên", nhưng đó là "đảng viên thường". Còn các vị lãnh đạo đảng là "siêu đảng viên", và cá nhân họ cũng không phải là "tổ chức", vì vậy có thể hoàn toàn tự do "ngoài vòng Hiến pháp và pháp luật".

Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày 16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) đã phân tích và kiến nghị như sau:

"Về Điều 4, hiện nay về Đảng thì chúng ta có 3 chủ thể: Thứ nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam; Thứ hai là các tổ chức của Đảng; Thứ ba là đảng viên. Nhưng khi thiết kế Điều 4 thì chúng ta bỏ quên chủ thể quan trọng nhất là Đảng cho nên chúng ta chỉ quy định các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều 4 tôi chỉ xin thêm một từ ở đằng trước, tức là 'Đảng, các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật'."

Đề nghị của Luật sư Trương Trọng Nghĩa là rất hợp lý, để loại trừ khả năng biện hộ rằng: "Đảng không phải là một tổ chức của Đảng, nên Đảng không phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".Nếu thực tâm muốn tôn trọng "khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật", thì chẳng tiếc gì mà không thêm chữ"Đảng" vào đầu câu như ông Nghĩa đề xuất. Thế nhưng, đề nghị ấy đã không được chấp nhận. Phải chăng việc khước từ đó càng thể hiện rõ hơn động cơ của đạo diễn và bản chất của Điều 4?

Một nét mới của Điều 4 trong phiên bản 2 và phiên bản 3 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là khoản sau đây được chèn thêm vào giữa:

"Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình."

Câu này đã khiến một số người hâm mộ đảng hân hoan ca ngợi. Nhưng thực ra có gì là mới ở đây hay không? Thế nào là "gắn bó mật thiết"? "Gắn bó" như hiện nay đã đủ hay đã quá "mật thiết" hay chưa?"Phục vụ nhân dân" thế nào thì bấy lâu đã rõ, xin kiếu, xin kiếu! "Chịu sự giám sát" hay "đành chịu sự giám sát"? Nhân dân "giám sát" thế nào, khi mọi chuyện tày đình đều diễn ra ở những nơi kín cổng cao tường, được súng ống bảo vệ nghiêm ngặt? Giả sử bằng cách nào đó mà biết được chút chuyện "thâm cung", thì đành ngậm miệng, hay nông nổi phát ngôn, để rồi có thể bị khép vào "tội cố ý" hay "tội vô tình làm lộ bí mật nhà nước" (Điều 263 và Điều 264 Bộ luật hình sự)? Và "giám sát" để làm gì? Nếu được phép "giám sát", nhưng khi phát hiện ra điều sai trái thì cũng chỉ có thể bó tay bất lực và thêm ấm ức, thì "quyền giám sát đảng" có hơn gì so với "quyền được tò mò, nhòm ngó chuyện riêng của nhà hàng xóm"? Thế nào là "chịu trách nhiệm trước nhân dân"? Ăn chán, phá chán cũng chỉ cần buông một câu "xin chịu trách nhiệm" là xong, vậy thì tội gì mà không ăn, không phá? Toàn là mỹ từ chung chung, vô định, phù hợp với mục đích tuyên huấn, nhằm mê hoặc và ru ngủ người đọc, chứ không thể dùng để diễn đạt các ràng buộc pháp lý.

Những băn khoăn vừa kể chỉ có ý nghĩa khi khoản mới bổ sung vào Điều 4 là đòi hỏi mà đảng cầm quyền phải thực hiện. Nhưng lấy gì để đảm bảo rằng đó thực sự là đòi hỏi, chứ không phải là tái diễn hình thức"công chứng bất chấp hiện trạng của nguyên bản"? Nếu quả là đòi hỏi, thì cần thêm bốn chữ "phải" như sau:

"Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân,phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình."

Hoặc ít nhất cũng bổ sung một chữ "phải" để áp chung cho cả bốn nghĩa vụ:

"Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình."

Như vậy không phải là quá máy móc, mà cũng chỉ hiến định giống như hai điều khoản sau đây của Hiến pháp 1992, cũng về quan hệ với Nhân dân:

"Điều 8 Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…"

"Điều 97 … Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri…"

Quan sát kỹ sẽ nhận ra sự khác nhau "tinh tế" giữa yêu cầu đối với Nhà nước trong Hiến pháp 1992 và yêu cầu đối với ĐCSVN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Các cơ quan Nhà nước "phải tôn trọng nhân dân" và "lắng nghe ý kiến… của nhân dân", còn đảng thì không "phải tôn trọng nhân dân" và cũng không phải"lắng nghe…nhân dân"; các cơ quan Nhà nước phải "tận tụy phục vụ nhân dân", còn đảng thì cũng "phục vụ nhân dân" nhưng không cần phải "tận tụy". Thế cũng đã là tiến bộ vượt bậc rồi, bởi Hiến pháp 1992còn không hề nhắc đến quan hệ của đảng đối với Nhân dân.

Có lẽ để "cởi trói" cho Nhà nước, nên "Các cơ quan Nhà nước" được giải phóng khỏi Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2:

"Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân…"

Sau đó, không hiểu do sức ép nào mà người ta lại đành chịu để cho "Các cơ quan Nhà nước" tái hiện trong Điều 8 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3:

"Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…"

*

*      *

Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 và phiên bản 3, số lần xuất hiện của chữ "phải" ít hơn so với trong Hiến pháp 1992. Vì sao như vậy? Một số chữ "phải" biến tướng thành thuật ngữ khác, như "có trách nhiệm""có nghĩa vụ"… Chẳng hạn, đoạn

"công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội"

tại Điều 51 Hiến pháp 1992 biến thành đoạn

"Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội"

tại Điều 20 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Một số chữ "phải" thì biến mất hẳn, vì một số điều khoản được bãi bỏ. Ví dụ, quy định

" Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu…"

tại Điều 100 Hiến pháp 1992 biến khỏi cả hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. (Chả trách mà một số đại biểu Quốc hội say sưa ca ngợi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.)

Có một ưu ái đặc biệt mà "Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" dành cho Dân trong Hiến pháp 1992, đó là "vinh danh" Dân hai lần trong mối quan hệ với pháp luật:

"Điều 12  … mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…"

"Điều 79  Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật…"

Các tác giả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2 đã kết hợp nhuần nhuyễn tính kế thừa với tính sáng tạo, và thu được kết quả tương ứng như sau:

"Điều 8  … cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…"

"Điều 49  Công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật…"

Trong Điều 8, từ "cá nhân" được dùng để thay thế cho từ "mọi công dân" ở Điều 12 Hiến pháp 1992. Nghĩa là Dân vẫn được "vinh danh" hai lần: Một lần dưới danh nghĩa "công dân" và một lần dưới danh nghĩa "cá nhân""Chu đáo" với Dân đến thế là cùng.

Trong khi đó, họ lại "sơ suất" đánh mất hai chữ "Nhà nước" trong đòi hỏi "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật". Quy định

"Điều 12  … Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật…"

trong Hiến pháp 1992 được sửa thành

"Điều 8

1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…"

trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Khoản 1 Điều 8 học theo phong cách của Điều 4 Hiến pháp 1992, không hề sử dụng từ "phải" hay thuật ngữ tương đương, nên cũng không rõ đó là đòi hỏi hay ghi nhận (tức là "công chứng"). Nếu đó là đòi hỏi thì Nhà nước cũng chỉ cần "hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật". "Theo" được bao nhiêu thì "theo", chứ không bắt buộc "phải nghiêm chỉnh chấp hành…". Nghĩa vụ "phải nghiêm chỉnh chấp hành…" trong Khoản 3 Điều 8 chỉ áp vào "Cơ quan, tổ chức" chung chung, mà thường chỉ được hiểu là "cấp dưới". Rồi đến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3Điều 8 chỉ giữ lại cái Khoản 1 mập mờ, còn Khoản 3 thì hoàn toàn biến mất, do đó cả "Cơ quan, tổ chức" chung chung cũng không còn bị đòi hỏi "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật" nữa.

Chưa hết, cái quy định

"Ủy ban nhân dân … chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân"

tại Điều 123 Hiến pháp 1992 cũng bị xóa khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 2. Có lẽ họ đã kịp nhận ra như vậy cũng không ổn lắm: Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì không thành vấn đề, nhưng nếu bỏ cả quy định "chấp hành … các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên", ngộ nhỡ địa phương không chịu nghe theo trung ương nữa thì sao? Cho nên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3, họ đã đưa ra hai phương án: Với phương án 1 thì Ủy ban nhân dân vẫn không bị nhắc nhở là phải "chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật…"; phương án 2 khôi phục nguyên văn quy định củaĐiều 123 Hiến pháp 1992. Nếu phương án 1 được thông qua, thì không chỉ các cơ quan của đảng, mà cả các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều được "giải phóng" khỏi "trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật". Còn nếu phương án 2 được thông qua thì chỉ Ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương phải "chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật" mà thôi. Dù bất cứ phương án nào của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp phiên bản 3 được chọn, thì công dân cũng vẫn được "chăm sóc chu đáo", không bị bỏ sót, bởi:

"Điều 49  Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật…"

Hóa ra, nghĩa vụ Nhà nước chỉ nhất thời, nghĩa vụ Dân mới vạn đại.

*

*      *

Để hiểu rõ hơn Điều 4 Hiến pháp 1992 và các phiên bản biến dạng của nó, ta đã lan man sang một số điều khoản khác của Hiến pháp. Đấy không phải là lạc đề, mà để có được tầm quan sát bao quát hơn, nhằm thấu hiểu hơn bản chất và ý nghĩa của Điều 4. Phải so sánh với cách cư xử mà họ dành cho Dân, thì mới nhận ra mức độ ưu ái mà thế lực cầm quyền dành riêng cho mình. Thế mới biết, trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại trên đất Việt, thì nguyên lý "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 52 Hiến pháp 1992) cần được hiểu như thế nào. Vâng, "mọi công dân đều bình đẳng…", nhưng giới cầm quyền còn "bình đẳng hơn", và lãnh đạo cấp cao nhất thì tất nhiên phải được "bình đẳng nhất". Có lẽ vì cái không gian dân chủ xã hội chủ nghĩa quá chật hẹp, nên giới cầm quyền phải đứng ngoài khuôn khổ pháp luật, phải đứng trên hiến pháp, để… "nhường chỗ cho Dân".

Các điều khoản đã trích dẫn ở trên cho thấy: Chỗ nào thấy cần thì các tác giả Hiến pháp đều nhớ dùng từ"phải" hoặc những từ đồng nghĩa để nhấn mạnh sự "đòi hỏi". Họ chỉ cố tình "quên" dùng từ "phảiở Điều 4 mà thôi. Nhờ thế, Hiến pháp trao cho ĐCSVN quyền lực lãnh đạo tối cao vô biên, nhưng lại không đòi hỏiĐCSVN phải thực hiện bất cứ điều gì, kể cả việc "nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật", như quy định ở Điều 12 đối với các thành phần còn lại của xã hội. Hơn nữa, bất luận thực tế tốt xấu ra sao, thìĐCSVN cũng được "công chứng" trong Hiến pháp là đã "tiên phong…", đã "trung thành…", đã "hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật", và đã "gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình".

Lối viết lấp lửng tạo cho người đọc ảo tưởng rằng lãnh đạo đảng đã tự giác đặt mình vào khuôn phép, nhưng vẫn đảm bảo cho "đấng tối cao" chẳng phải chịu bất kỳ ràng buộc pháp lý nào cả, và bất kể thế nào thì cũng vẫn được vinh danh.

Liệu đó có phải là thâm ý của những người đã ấn định nội dung Điều 4 trong Hiến pháp 1992 và hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hay không?

Điều 4 như vậy có hợp lý không?

Viết ra và tung hô một điều như vậy có phải là tử tế không?

Chúng ta có thể nhắm mắt mà chấp nhận một điều hiến định như thế hay không?

29/08/2013 – Mừng Cháu tròn một tuổi

H.X.P.

Tác giả trực tiếp gửi cho BVN