Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Giáo sư 'bị cắt xén' khi góp ý hiến pháp

Nguồn BBC

Quốc Phương BBC Việt ngữ 
Cập nhật: 23:20 GMT - thứ tư, 30 tháng 1, 2013

Giáo sư vật lý Đàm Thanh Sơn

Giáo sư vật lý Đàm Thanh Sơn đang làm việc tại Đại học Chicago, Hoa Kỳ

Một Giáo sư vật lý gốc Việt làm việc tại Đại học Chicago, Hoa Kỳ, phản ánh trên mạng việc ông bị 'cắt xén' ý kiến khi ông đáp ứng lời kêu gọi gần đây của chính quyền và quốc hội Việt Nam, góp ý sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992.

Trong một Bấmthông điệp đưa ra trên trang blog "Hiến pháp", Giáo sư Đàm Thanh Sơn cho hay ông đã gửi một 'thư' góp ý tới Văn phòng Quốc hội vào hôm thứ Ba tuần trước, nhưng khi được công bố, trang mạng chính thức về dự thảo hiến pháp của Quốc hội và chính quyền đã "cắt bỏ" ý kiến của ông và không hồi đáp để giải thích lý do, mặc dù ông đã "nhiều lần" liên lạc chấn vấn.

Giáo sư Sơn viết: "Thư dưới đây đã được chuyển đến trang "Dự thảo online" (duthaoonline.quochoi.vn) của Văn phòng Quốc hội vào ngày 22/1/2013.

"Sau đó một đoạn ngắn (về Điều 42) được đăng trong phần "Ý kiến người dân" ( Bấmxem ở đây), còn lại bị cắt bỏ đi. Tôi đã nhiều lần email hỏi những người quản trị trang mạng về phần còn lại của bức thư, nhưng tới nay tôi vẫn không nhận được trả lời.

Giáo sư cho hay sau đó ông đã quyết định đăng toàn văn bức thư đã gửi đi hai tuần trước vì không muốn tính toàn vẹn trong ý kiến đóng góp của ông bị ảnh hưởng, đồng thời ông nhận xét một số điểm trong bản Dự thảo hiến pháp do Quốc hội và chính quyền công bố có chất lượng "giảm đi rất nhiều."

Giáo sư Sơn viết: "Do không muốn góp ý của mình xuất hiện ở dạng đã bị cắt xén nên tôi đăng lại toàn bộ ở đây. Bức thư có phạm vi hạn chế, chỉ nói đến một số thay đổi trong bản Dự thảo mà tôi thấy làm cho chất lượng của Hiến pháp giảm đi rất nhiều."

Trong phần đăng ý kiến đóng góp của công dân, trang "Dự thảo online" của Quốc hội chọn đăng phần đóng góp của Giáo sư Sơn về một điều khoản liên quan tới giáo dục, nhưng có vẻ đã "lờ đi" phần ông đóng góp ý kiến liên quan tới "tính trung thành với đảng" được đặt lên trước dân tộc, đất nước và nhân dân của "các lực lượng vũ trang."

'Trung thành với ai?'

"Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một bộ phận của nhân dân Việt Nam, do đó đặt cụm từ "Đảng cộng sản Việt Nam" lên trước hai từ "Tổ quốc" và "nhân dân" như trong dự thảo là không hợp lý"

Giáo sư Đàm Thanh Sơn

Phần đóng góp liên quan điều 70 (sửa đổi, bổ sung điều 45), Giáo sư Sơn đề nghị và nhấn mạnh:

"Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ dân chủ, cùng toàn dân xây dựng đất nước".

Ông cho rằng không nên quy định như bản dự thảo hiến pháp của chính quyền nói: "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân".

Giáo sư nêu quan điểm: "Theo tôi, các lực lượng vũ trang của Việt Nam phải tuyệt đối trung thành với đất nước và nhân dân Việt Nam, do đó quy định như trong Hiến pháp hiện hành là đủ.

"Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một bộ phận của nhân dân Việt Nam, do đó đặt cụm từ "Đảng cộng sản Việt Nam" lên trước hai từ "Tổ quốc" và "nhân dân" như trong dự thảo là không hợp lý."

Ông cũng không đồng tình với điều 70 của bản dự thảo khi chính quyền quy định một nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang là "bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân" và cho rằng quy định này "không hợp lý" vì theo ông các từ 'Đảng' và 'Nhà nước' đã "được đặt lên trước "nhân dân.'"

Được biết, chính quyền đã tuyên bố góp ý của dân cho Dự thảo Hiến pháp, dựa trên sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 lần này là "không có cấm kỵ", như khẳng định trước công luận của Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, ông BấmPhan Trung Lý, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

"Nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả," ông Lý được truyền thông trong nước trích lời nói.

'Đảng sẽ tiếp thu?'

Giáo sư Hoàng Xuân Phú

Giáo sư toán học Hoàng Xuân Phú cho rằng có 'bãi mìn' về pháp lý trong bản Dự thảo Hiến pháp của chính quyền

Gần đây đã có nhiều ý kiến của người dân, trong đó có giới trí thức trong và ngoài nước góp ý cho Dự thảo Hiến pháp, một số ý kiến tỏ ra 'trực diện, mạnh mẽ' khi góp ý về vai trò, vị thế và các quyền của Đảng được ghi trong dự thảo.

Có ý kiến cho rằng cần loại bỏ các điều khoản quy định các quyền lực độc tôn của Đảng về chính trị và kinh tế, trong đó có điều 4 về vai trò, phạm vi quyền độc tôn của Đảng và quy định khác về việc chính quyền do Đảng lập và điều hành có quyền độc tôn định đoạt chế độ sở hữu đất đai tư nhân.

Một số cũng yêu cầu trưng cầu dân ý về việc nên sửa đổi Hiến pháp, hoặc lập Hiến pháp mới, trong đó thực sự bảo đảm các quyền cơ bản của người dân, được sự phúc quyết của toàn dân, thay vì các bộ phận dân chúng chỉ được quyền "góp ý" trong vòng vài ba tháng như hiện nay, trên một bản dự thảo được cho là do chính quyền và quốc hội do đảng nắm đa số và lãnh đạo, "soạn sẵn."

Nhiều ý kiến khác của giới trí thức cũng đặt vấn đề nếu "Dự thảo Hiến pháp" và lần sửa đổi, bổ sung lần này có nguy cơ dẫn tới sự "thụt lùi" hay "thu hẹp" các quyền cơ bản của người dân, được hiểu là nhân quyền, trước khi nói tới quyền công dân, với những gì được cho là những "bãi mìn pháp lý" được ai đó "gài cắm," thì nên tạm dừng hay ngừng hẳn "việc sửa đổi lần này."

Trong một trao đổi với BBC Việt ngữ gần đây, một chuyên gia giảng dạy về luật Hiến pháp ở trong nước, không muốn tiết lộ danh tính, bình luận:

"Quy định 'không có vùng cấm' không có nghĩa là hoàn toàn đảm bảo và bao hàm rằng những người nêu ý kiến có thể sẽ bị xem xét về thái độ, quan điểm hay không trên cơ sở hồ sơ cá nhân sau này của họ," vì theo chuyên gia này "các chính sách ở VN có xu hướng tương đối và có thể chỉ nhất thời."

Trong một trao đổi khác với BBC, Giáo sư BấmNguyễn Minh Thuyết, cựu Đại biểu Quốc hội cho rằng một số ý kiến đóng góp có thể được đặt ra, nhưng việc quốc hội và nhà nước lắng nghe và tiếp thu tới đâu và ra sao "lại là chuyện khác."

Lê Thăng Long – Thông tin về tình trạng biệt giam của anh Trần Huỳnh Duy Thức

Nguồn danluan

Kính gửi: Ban biên tập Dân Luận,

Tôi vừa nhận được thông tin dưới đây từ nhiều anh em bạn tù khác nhau ở trại giam Xuân Lộc vừa mãn hạn tù trở về.

Theo những người này cho biết thì tình trạng bị cô lập, cách ly của anh Thức ở trại giam Xuân Lộc ngày càng nghiêm trọng. Anh ấy đã bị biệt giam một mình trong một phòng nhỏ từ tháng 8-2012 đến nay. Gần đây trại giam siết điều kiện sinh hoạt của anh ấy ngày càng tệ hơn. Không được ra ngoài nấu ăn, mỗi ngày chỉ mở cửa một chút vào giờ phát cơm. Họ còn không cho anh ấy nhận sách báo từ gia đình gửi vào như trước.

Điều đáng nói là cách đây vài tuần ông Huỳnh Ngọc Sỹ cũng chuyển về K1 trại giam Xuân Lộc. Vì ông ấy không thể ở khu chung (không cách ly và điều kiện sinh hoạt thoải mái) do những người tù ở đó hay sỉ vả ông ấy là đồ tham ô, tham nhũng. Nên trại giam bố trí cho ông ấy ở khu cách ly chỗ anh Thức. Nhưng ông ấy lại được ở phòng to, điều kiện sinh hoạt rất thoải mái, được mở cửa suốt ngày, được điện thoại về nhà, sách báo không hạn chế và nhiều ưu đãi khác.

Các anh em tù nhân ở đó rất bất bình nói rằng tội tham ô lại được ưu đãi, còn chính trị thì bị ngược đãi như anh Thức. Cũng theo anh em bạn tù trên cho biết rằng vài tháng trước nhiều người định tuyệt thực để đấu tranh yêu cầu trại giam không được biệt giam anh Thức. Nhưng trong một lần gặp anh Thức trên đường đi thăm gia đình (từ khu cách ly đi ra khu nhà gặp gia đình phải đi ngang khu chung), các bạn ấy hỏi thì anh Thức nói không nên tốn sức khỏe của mọi người để làm việc đó. Anh Thức nói sẽ từ từ giải quyết.

Bác Huỳnh, thân phụ của anh Thức cũng cho biết vài tuần trước đi thăm anh, anh nói rằng có một thời gian ngắn anh ở chung phòng với anh Phan Ngọc Tuấn (người bị kết án 5 năm theo điều 88 ở Phan Rang) nhưng sau đó thì mỗi người lại bị nhốt riêng trong một phòng nhỏ. Anh Thức cũng kể là có thấy ông Huỳnh Ngọc Sỹ trong khu cách ly.

Tình trạng này có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của anh Thức. Do vậy rất mong sự lên tiếng của cộng đồng.

Trân trọng cảm ơn,

Lê Thăng Long

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt lên tiếng về bản Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992

Nguồn nuvuongcongly

Trong những ngày qua, sự hưởng ứng của Giáo hội Công giáo đối với bản Kiến nghị này đã diễn ra sâu sắc, rộng rãi. Hàng loạt các linh mục, giáo dân đã ký tên hưởng ứng mạnh mẽ với bản Kiến nghị 7 điểm này. Đặc biệt, lần đầu tiên có sự tham gia đồng loạt của các Giám mục Việt Nam.

Cho đến hôm nay, 30/1/2013, hàng Giám mục Việt Nam đã có Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Ủy ban Công lý – Hòa bình HĐGMVN Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp. Ngày 29/1/2013, Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã ký vào bản Kiến nghị.

Trước đó, các trí thức của đất nước cũng đã có Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp, Lời kêu gọi này đã được sự quan tâm và hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân. Con số tham gia ký tên đã lên đến hàng ngàn người.

Trong ngày 29/1/2013, TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã đồng thời ký vào bản Lời kêu thực thi nhân quyền tại Việt Nam theo Hiến pháp và Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992.

Kể từ ngày nghỉ hưu tại Đan viện Châu Sơn, Ninh Bình, đây là lần đầu tiên TGM Giuse Ngô Quang Kiệt lên tiếng trước cộng đồng xã hội Việt Nam về những vấn đề hệ trọng của đất nước.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt ký tên vào bản Kiến nghị

Bản lên tiếng và ký tên của TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Nữ Vương Công Lý

Ngô Nhân Dụng - Một cơ cấu đang tan rã

Nguồn diendantheky

Ngô Nhân Dụng

Đầu năm 2013 một nhà kinh tế mới qua đời nhưng ít được báo chí ở Mỹ loan tin. Ông là một người đã tiên đoán tình trạng khiếm hụt ngân sách và nợ chồng chất gây tê liệt trong chính quyền và quốc hội từ hai năm nay; tháng tới lại sẽ tái diễn. Chỉ phân tích cách quyết định việc chi thu của quốc hội trong ngân sách quốc gia, James Buchanan đã báo trước là chính phủ liên bang sẽ càng ngày càng thiếu hụt, các món nợ công sẽ lên ngập đầu. Lý do chính là vì các đại biểu quốc hội phải lo đáp ứng những đòi hỏi của các cử tri đã giúp họ đắc cử, tiêu biểu là những nhóm quyền lợi riêng biệt (tư lợi, special interests). Các ý kiến của ông được đặt tên là Lý thuyết về Lựa chọn Tập thể (Public Choice Theory); ông được trao giải Nobel về Kinh tế học năm 1986 về những đóng góp này.


Buchanan thường được coi như một nhà kinh tế bảo thủ, vì ông chủ trương phải giảm bớt luật lệ và thu gọn vai trò của chính phủ đến mức tối thiểu. Nhưng ông cũng là người chủ trương nên đánh thuế di sản tới 100%, một điều mà giới bảo thủ kịch liệt chống, vì họ thấy suất thuế 35% đã là quá cao rồi! Buchanan lý luận rằng việc thừa hưởng di sản là trái với quy tắc bình đẳng trong cơ hội, vì những người hưởng di sản được chiếm địa vị ưu đãi so với người khác. Ông viết, "Bảo đảm một số quyền bình đẳng về cơ hội là triết lý căn bản của một xã hội tự do," trong cuốn The Limits of Liberty, năm 1975 viết chung với Robert P. Tollison. Cho đến khi qua đời, thọ 93 tuổi, ông vẫn là một người suy nghĩ tự do và độc lập, mối quan tâm chính là ích lợi chung.
Người Việt Nam nên biết cách suy nghĩ của James Buchanan. Cách phân tích của ông có thể giúp chúng ta hiểu rõ nguyên ủy của nạn tham nhũng lan tràn hiện nay cũng như tình trạng đấu đá tranh quyền trong nội bộ đảng Cộng Sản. Tất cả bắt nguồn từ những Lựa chọn Tập thể sai lầm ngay từ đầu.

Trong cuốn "Bài toán về Thỏa thuận," The Calculus of Consent, viết cùng Gordon Tullock năm 1962, Buchanan đặt tựa nhỏ: "Những Nền tảng Luận lý của Chế độ Dân Chủ Hiến định," Logical Foundations of Constitutional Democracy. Ông phân biệt hai cấp bậc của lựa chọn tập thể trong một quốc gia. Thứ nhất là ấn định các "luật chơi," thứ hai là tham dự trong cuộc chơi, dựa trên các luật lệ "hiến định" đó.

Lý thuyết Lựa chọn Tập thể buộc các mọi người phải chú ý nghiên cứu vai trò của nhà nước trong sinh hoạt kinh tế. Trong khi các nhà kinh tế khác chỉ lo tìm hiểu cách vận hành của cơ chế thị trường rồi đề nghị những giải pháp đáng được thi hành, Buchanan chú ý đến cơ chế chính trị, là nơi nắm quyền và được trao trách nhiệm áp dụng các chính sách kinh tế. Cho nên, phải dùng phương pháp kinh tế học soi sáng hành động của các nhà chính trị cũng như guồng máy công quyền; nhờ đó đặt ra các "luật chơi" nhằm bảo vệ các nguyên lý chung của cả xã hội như tự do, bình đẳng.

Bởi vì trong thực tế, các chính sách kinh tế đều chịu ảnh hưởng của những nhóm, những người nắm quyền quyết định, mọi người đều nhắm đến tư lợi. Trong kinh tế học người ta vẫn giả thiết là con người hành động vì tư lợi. Buchanan nhấn mạnh rằng những công chức và các đại biểu do dân bầu lên đều không phải sinh ra đã là những người vô vị lợi. Trong khi làm nhiệm vụ được mô tả là phục vụ công ích, họ cũng tự nhiên lo cho chính mình. Con người ai cũng muốn gia tăng quyền hành và lợi lộc. Các đại biểu quốc hội bao giờ cũng muốn được đắc cử và tái đắc cử. Cử tri và những người có thể ảnh hưởng trong việc bỏ phiếu cũng có những quyền lợi riêng. Bỏ quên giả thiết này thì sống trong ảo tưởng.

Do đó, việc đầu tiên của một hệ thống chính trị là ấn định các "luật chơi chung," để ngăn ngừa không cho tư lợi lấn lướt, làm chệch hướng, có khi làm hại công ích. Một luật chơi căn bản là bảo vệ tính công bằng trong xã hội, quan trọng nhất là bảo đảm mọi người đều có cơ hội bình đẳng. Phải bảo vệ lợi ích chung của xã hội bằng cách vạch rõ ranh giới giữa công và tư; khi nào quyền lợi công và tư xung khắc thì phải đạt công ích lên trên tư lợi. Đó là những luật chơi căn bản mà một xã hội tự do dân chủ không thể thiếu được.

Phân tích theo lối của James Buchanan, chúng ta thấy đảng cộng sản đã "gian lận" ngay khi thiết lập các định chế làm "luật chơi" cho đời sống kinh tế. Thí dụ, họ đặt ra một luật chơi: "Đất, ruộng thuộc quyền sở hữu của toàn dân;" không một cá nhân hay một tập hợp nào được hưởng quyền sở hữu. Kèm theo, là một luật chơi thứ nhì: "Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước và xã hội."

Với hai "luật chơi" này, đảng Cộng sản đã gian lận, dành quyền thủ lợi tối đa cho những kẻ nắm quyền trong đảng. Gian lận, vì họ hô hào nông dân giết địa chủ, rồi biến đảng thành chủ nhân duy nhất của tất cả đất đai, ruộng, rừng, sông, biển. Họ nắm quyền ban phát, cho ai được phép sử dụng các tài nguyên đó, ai được dùng nhiều hơn ai, còn đảng đóng vai thu tô, thu thuế. Họ nắm quyền cho nên có thể trao đất, trao rừng, trao quặng mỏ cho người Trung Quốc khai thác, không cần biết dân Việt Nam muốn thế nào. Ngày xưa quyền của các địa chủ còn bị giới hạn. Quyền hành của ông địa chủ đời nay là tuyệt đối và vô giới hạn.

Ông địa chủ Đảng Cộng sản lại có quyền biến đổi giá trị của đất đai tùy thích, không theo một quy tắc giá cả nào theo lối kinh tế thị trường. Họ có thể chiếm lại một vùng đất ruộng của nông dân, đền bù với giá bồi hoàn rất rẻ, biện minh rằng đó là "thời giá" trong thị trường. Điều này có thể đúng, vì một thửa ruộng sinh lợi được bao nhiêu mỗi năm có thể kiểm chứng được. Nhưng ngay sau khi cướp đất hợp pháp rồi, với quyền hành vô hạn, họ biến mảnh đất thành khu công nghiệp, khu thương mại, cư trú hay du lịch. Trong chớp mắt, giá trị đất tăng lên hàng chục, hàng trăm, hay ngàn lần. Đọc những lời biện minh của đảng Cộng sản ở thành phố Đà Nẵng, chúng ta thấy lúc nào họ cũng biện minh rằng họ tính giá đất theo "thời giá" cả. Nhưng ai cũng biết các cán bộ nắm quyền lúc nào cũng nắm những pháp thuật biến đất thành vàng. Pháp thuật nào đã tạo ra giá trị gia tăng đó? Quyền. Ai được hưởng những giá trị gia tăng? Những kẻ nắm quyền.

Với những "luật chơi kinh tế" như vậy, cả guồng máy đảng cộng sản là một hệ thống chia chác quyền hành cho nhau, để kiếm lợi trên đất đai, rừng biển của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản đã tước đoạt tài sản của quốc gia để cho một tập đoàn tham ô làm giầu. Ngay từ khi họ đặt ra những luật chơi kinh tế bắt toàn dân phải chấp nhận, không ai được từ chối. Giống như một chủ sòng bài có quyền bắt cả nước phải tham dự trò đen đỏ với họ, với một quy luật: "Chẵn thì tôi ăn, lẻ thì anh thua." Chưa bao giờ có một vụ cờ gian bạc lận rộng lớn và kéo dài như thế.

Những phân tích của James Buchanan đã dẫn tới những cải tổ về luật chơi trong đời sống chính trị và kinh tế ở nước Mỹ. Ông yêu cầu mọi người phải đề phòng những xung khắc giữa tư lợi và công ích; khi trao quyền cho ông tổng thống, các đại biểu quốc hội hay các viên chức nhà nước, phải biết rằng họ đều có những quyền lợi riêng, không thể giả thiết là ai cũng chỉ nghĩ đến công ích. Chế độ cộng sản không quan tâm đến vấn đề này. Trước hết, chủ nghĩa cộng sản đặt trên một ảo tưởng. Trên lý thuyết, họ giả thiết là các người nắm quyền, từ giới lãnh đạo cho tới các cán bộ, sẽ thi hành các quyết định của đảng, không cán bộ nào nghĩ tới tư lợi cả. Họ đưa ra những cương lĩnh, những nghị quyết, chỉ tiêu, vân vân. Họ giả thiết các cán bộ sẽ thi hành những quy tắc hay khẩu hiệu trừu tượng đó; không bao giờ lo ngại để đề phòng là mọi người, mọi nhóm người đều chứa sẵn những động cơ riêng tư. Tất nhiên, giả thuyết đó sai lầm, hoàn toàn trái ngược với thực tế. Khi kết quả hoàn toàn trái ngược với các chỉ tiêu và khẩu hiệu, cả chế độ phải nói dối quẩn quanh, dối lẫn nhau và dối người ngoài, một tình trạng dối trá có hệ thống. Gốc rễ của chế độ tham nhũng, lạm quyền hiện nay là do một sai lầm căn bản, sai lầm nằm trong cốt lõi của hệ thống, ngay từ khi thiết lập các chế độ cộng sản đầu tiên.

Một chế độ đặt trên một giả thiết hoàn toàn trái ngược với bản tính con người, cuối cùng phải tan rã, như chúng ta đã chứng kiến ở Đông Âu và Nga xô.

Đáng lẽ ra khi các đảng cộng sản còn sống sót phải quay ngược đầu, bắt chước lối tư bản, gọi là kinh tế thị trường, thì những người cầm đầu phải chấp nhận một giả thiết thực tế, là trong phạm vi kinh tế mỗi người thường lo cho lợi ích của riêng mình trước hết. Nhưng để tiếp tục nắm quyền, họ vẫn giả bộ như không biết. Họ tiếp tục bảo vệ cái chủ nghĩa đầy ảo tưởng như cũ, vẫn coi lý thuyết Mác Lê Nin là kim chỉ nam. Đứng trước các hành động tham ô rừng rú, họ vẫn chỉ hô khẩu hiệu phải "cải tạo tư tưởng" các cán bộ. Họ không dám thay đổi cơ cấu để tác động ngay trên hành vi và thái độ của các cán bộ đang nắm quyền. Mà quyền hành của những người này thường vô giới hạn, hoặc chỉ giới hạn rất mơ hồ.

Quyền hạn mơ hồ cũng là một "luật chơi" căn bản của các chế độ cộng sản. Vì mỗi lãnh tụ, cho đến mỗi cán bộ, đều bất chấp các quy tắc hành chánh và pháp lý. Xưa nay, "luật chơi" của chế độ cộng sản là "không cần luật." Các lãnh tụ cộng sản biết rằng khi nào luật lệ còn mơ hồ, lỏng lẻo, còn có thể thay đổi tùy tiện, thì họ còn có cơ hội thủ lợi. Vì vậy, những nhà kinh doanh thành công, như Trần Huỳnh Duy Thức, cũng thấy không thể sống được trong một xã hội mà ngay trong bước đầu ấn định luật chơi kinh tế đã không công bằng, không ngay thẳng. Khi một nhà kinh doanh thành công như Trần Huỳnh Duy Thức lên tiếng đòi thay đổi luật chơi, anh cũng biết là anh sẽ phải vào tù.

Nhưng kẻ dùng gươm sẽ chết bằng gươm. Đảng Cộng sản bắt đầu tan rã khi chính những luật chơi họ đặt ra cũng quay ngược mũi dao, đâm vào chính họ. Chúng ta đang chứng kiến cảnh các lãnh tụ tranh giành nhau, cấu xé nhau, vì những luật chơi mơ hồ đang đưa tất cả vào bế tắc, sắp đến ngày tan rã.

Giáo xứ Cồn Sẻ phản hồi việc đưa tin thiếu chính xác của Truyền hình Việt Nam

Nguồn chuacuuthe

130129conse-120x80VRNs (29.01.2013) – Quảng Bình – Vì vậy, tôi (linh mục Hoàng Anh Ngợi) và 3.360 người dân thôn Cồn Sẻ cùng với những người tham gia trục vớt:

1. Chúng tôi phản đối cách đưa thông tin trái sự thật của Đài Truyền hình Việt Nam.
2. Chúng tôi yêu cầu Đài Truyền hình Việt Nam sớm cải chính thông tin.
3. Đề nghị phải có kỷ luật thích đáng với những ai nhận tin và đưa tin thiếu chuyên nghiệp. Đồng thời, rút kinh nghiệm trong các hoạt động lần sau.

——————-

Cồn Sẻ, ngày 13 tháng 01 năm 2013 

PHẢN HỒI
VIỆC ĐƯA TIN THIẾU CHÍNH XÁC CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
VỀ VIỆC TRỤC VỚT TÀU CHÌM CỒN SẺ – QUẢNG BÌNH

Kính gửi: Ông Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam.

Tôi, linh mục Hoàng Anh Ngợi, đại diện cho 3.360 người dân giáo xứ Cồn Sẻ (Quảng Lộc – Quảng Trạch – Quảng Bình) xin gửi lời chào tới Ông và gửi "nội dung bản phản hồi việc đưa tin thiếu khách quan của Đài Truyền hình Việt Nam" như sau:

Kính thưa Ông Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam! Lẽ ra sự phản hồi này tôi gửi tới Ông sớm hơn, mặc dù tôi đã đã nghe thời sự, báo chí và các thông tin chuyển tải. Nhưng từ lúc xảy ra sự cố và những ngày tiếp theo, tôi cùng với Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV) giáo xứ tập trung lo việc. Sau những ngày mệt nhọc với công việc, không may tôi lại bị ốm. Đến hôm nay, hẳn là chưa muộn, bởi sự thật của sự việc vẫn còn đó, tất cả vẫn là sự thật. Và chúng ta nên lắng nghe "tiếng nói của sự thật".

Kính thưa Ông ! Trong đêm 30/12/2012, ba con tàu thuộc đội tàu Cồn Sẻ : tàu anh Nguyễn Phong mang biển hiệu QB.93714.TS, tàu anh Mai Văn (QB.93269.TS), và tàu anh Mai Thọ (QB.93999.TS) bị lâm nạn trên đường chạy từ Đảo Hòn Cỏ vào tránh gió tại Cửa Gianh. Thương thay ! Vì sóng quá to, gió quá lớn ba tàu không thể vào cửa được.

Thấy tình thế khó khăn như vậy, thuyền trưởng Nguyễn Phong (QB.93714.TS) đàm ra cho hai tàu kia cố gắng "chôm lên Cảng La để trú ẩn". Nhưng không may, tàu anh Nguyễn Phong gióng thẳng vào mũi La và cầm cự được 7 hải lí thì bị chìm. Khi tàu bị chìm, thuyền trưởng Nguyễn Phong kêu thuyền trưởng Mai Văn chạy cách sau 5 hải lí và bình tĩnh đọc rõ toạ độ: "Văn ơi chìm rồi ! 17/48 độ Bắc, 106/35 độ Đông". Khi tiếng kêu chấm dứt, cũng chính là lúc chấm dứt liên lạc bộ đàm giữa ba tàu và cũng là lúc kết thúc mạch nối tin tức trên đất liền với tàu anh Nguyễn Phong qua các điện thoại của các thuyền viên.

Đúng lúc 3 giờ sáng (30/12/2012), sau khi nhận được thông tin chính xác qua điện thoại và bộ đàm của tàu anh Mai Văn. Tôi liền tổ chức cuộc họp khẩn gồm các thành phần: Hội Đồng Mục Vụ xứ – xóm giáo xứ Cồn Sẻ (22 người) và 48 thuyền trưởng trong đội tàu của giáo xứ Cồn Sẻ. Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, 15 con tàu của giáo xứ đã sẵn sàng tập kết tại Cửa Gianh để vượt cửa ra khơi đi cứu – tìm những người anh em… Nhưng vì Cửa Gianh sóng dựng lớp lớp như tường thành…, tôi sợ "tang chồng tang, đau khổ chồng chất đau khổ", nên tôi quyết định không cho một tàu nào vượt cửa.

"Kiên cường – hiên ngang – dũng cảm, sống có nhau – chết có nhau" vốn là bản chất truyền thống từ ngàn xưa của dân làng Cồn Giữa (Cồn Sẻ). Sáng ngày 31/12/2012, chúng tôi với tinh thần"đã quyết thì hành, đã gieo thì gặt", không những 15 con tàu của ngày hôm qua (30/12) mà hôm nay đến cả 40 con tàu của giáo xứ Cồn Sẻ đã vượt sóng ra khơi. Người đáng tuyên dương nhất là thuyền trưởng Phạm Thắng và con tàu đáng tuyên dương nhất cũng chính là con tàu của anh. Trong sự liều lĩnh và cầu mong may mắn Ơn Trên, con tàu của người dũng sĩ mang biển hiệu QB.93099.TS đã lọt Cửa Gianh và sau đó chừng 40 phút thì cả 39 tàu đã chiến thắng với tử thần sóng gió.

Tàu của người dũng sĩ (Phạm Thắng) tìm đến 17/48 độ Bắc, 106/35 độ Đông. Sau khi xác định tọa độ tàu chìm, thì tàu không còn trên toạ độ đó nữa mà bị sóng nước di chuyển đến 2 hải lí (cách bờ biển Quảng Xuân hơn 4 hải lí, cách Cửa Gianh 7 hải lí). Đây chính là điểm "con tàu của anh Nguyễn Phong đang an nghỉ". Tại đây, tàu anh Phạm Thắng đã tìm thấy một thi thể đó là anh Mai Khương Duy. Theo nhận định của nhiều ý kiến trong cuộc họp sáng ngày 30/12/2012 thì : "nhiều thi thể đang nằm trong khoang tàu". Chính vì thế mà công việc khẩn thiết trong ngày 31/12 là "TRỤC VỚT TÀU LÊN".

Việc trục vớt tàu lên một cách an toàn để lấy thi thể, quả là một vấn đề hết sức khó khăn của đội tàu giáo xứ Cồn Sẻ. Nên tôi và Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ Cồn Sẻ quyết định "THUÊ XÀ LAN VÀ CẦN CẨU".

Khi biết được chiếc xà lan của anh Trần Văn Thoại (Nghệ An) đang neo đậu tại Cảng La. Chúng tôi tiến hành làm giá qua điện thoại với anh Trần Văn Thoại, hai bên thoả thuận việc trục vớt tàu với giá là 150.000.000 triệu đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).

Công việc tiếp theo rất khẩn trương mà tôi phải làm: gọi điện thoại tới linh mục Nguyễn Quang Tuấn, (linh mục quản xứ ĐôngYên) báo tin và giúp ngỏ lời với các thợ lặn trong giáo xứ để sớm có mặt tại hiện trường. Chỉ trong 2 tiếng đồng hồ, 9 anh em thợ lặn giáo xứ Đông Yên được xe chở vào tận Cồn Sẻ. Với tinh thần cao cả, tự nguyện của anh Nguyễn Hữu Tòng (người xứ Đông yên), chủ nhân của con tàu NA.90607.TS với trang bị thô sơ các phương tiện lặn, chở 9 anh em thợ lăn vượt Cửa Gianh.

Kính thưa Ông Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam ! Suốt 3 ngày với 370 người dân Cồn Sẻ ngồi trên 40 con tàu máy không ngừng nổ, chia nhau làn khơi làn lộng rảo tìm thi thể và tham gia trục vớt. Suốt 2 ngày, 9 anh em thợ lặn Đông Yên ngâm mình trong giá rét và hiểm nguy chực chờ, và suốt 1 ngày thuê xà lan làm việc. Thế mà vì sao những "dũng sĩ" đó không được nhắc đến, không được tuyên dương ? Tội nghiệp thay ! Sự hy sinh của họ chỉ là "dã tràng xe cát biển đông ư !"

(Chi tiết của sự việc từ lúc 3 giờ sáng 30/12/2012 đến 7 giờ sáng 03/01/2013, nghĩa là từ lúc tàu chìm đến lúc tàu được đem về tận nơi có trong Bản Tường Trình của tôi. Tôi không tình tiết ở đây, nếu cần, tôi sẽ gửi file).

Thế mà, trong Chương trình Thời sự của VTV1 phát đi tối ngày 03/01/2013 (từ phút 15:50) về hoạt động trục vớt tàu chìm đã thông tin sai lệch "ĐỀ CAO VAI TRÒ CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG". Họ đã không thể hiện đúng tinh thần trách nhiệm của Cấp của Ngành, nhưng trên truyền hình VTV1 nói riêng và phương tiện truyền thông nói chung đều đề cao chiến tích bộ đội biên phòng và các cấp lãnh đạo khác.

Việc đề cao sai lệch đó đã gây nên sự phẫn nộ đối với 3.360 người dân Cồn Sẻ, với những ai khi đã hiểu rõ sự việc; cách riêng đối với 370 người ngồi trên 40 con tàu, 9 anh em thợ lặn suốt 2 ngày trời phó mình cho "Thuỷ Quái" và những người ngồi trên xà lan.

Kính thưa Ông Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam ! Khi xảy ra sự cố của 3 con tàu (1 chìm, 2 lênh đênh), tôi gọi điện đến nhờ các lực lượng cứu hộ – cứu nạn tỉnh Quảng Bình cứu giúp, song đã không nhận một may mắn nào. Tôi tiếp tục ngỏ lời để mong được điều hành tàu Đà Nẵng ra, tàu Nghệ An vào, trực thăng bay tới nhưng đâu có kết quả gì.

– Tàu cứu hộ Nghệ An vẫn có, nhưng không biết chạy từ đường nào mà 18 giờ 30 phút của tối ngày 30/12/2012 mới cập bến tại Cửa Gianh.

Tàu cứu hộ này đi cứu ai? Ai đi trên tàu cứu hộ? Tàu cứu hộ này làm nhiệm vụ gì khi sự việc cần phải cứu hộ? Trong khi đó 1 tàu đã "an giấc", còn 2 tàu kia lênh trên biển sự chết gần kề, mà họ không hề nhận được một lời thăm hỏi gì đang khi gặp hiểm nguy?

Giữa lúc tang tóc, đau buồn và xót xa này, lòng dân Cồn Sẻ, nhất là những người tham gia trục vớt và lần mò tìm kiếm đang rất đau lòng và phẫn nộ trước cung cách làm việc của Đài Truyền hình Việt Nam.

THAY CHO LỜI KẾT :

– Đừng như "Lý Thông cướp công Thạch Sanh" (truyện cổ tích).
– "Lợi cho dời dào, danh cho lừng lẫy làm chi ? Ôi ! Công danh rút cuộc cái quan tài". (Trương Vĩnh Ký).

Trong một thế giới đầy năng động đổi thay. Một thế giới đầy hứng thú và hấp dẫn. Mong rằng, truyền thanh cũng như các dạng báo chí đừng vì hứng thú và hấp dẫn mà đánh bóng các tin tức, hoặc đừng vì lợi nhuận – thăng hoa mà cố vùi dập giá trị đạo đức của nghề nghiệp. Nhưng, cho dù ai đó, xin khuyên rằng : hãy giữ lòng mình trong thang giá trị chuẩn mực của đạo đức. Trên hết hãy nhắm vào sự thật để sống và để phấn đấu, bởi vì "SỰ THẬT GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI". Chúng ta nên lắng nghe "tiếng nói của sự thật !"

Vì vậy, tôi và 3.360 người dân thôn Cồn Sẻ cùng với những người tham gia trục vớt:

1. Chúng tôi phản đối cách đưa thông tin trái sự thật của Đài Truyền hình Việt Nam.
2. Chúng tôi yêu cầu Đài Truyền hình Việt Nam sớm cải chính thông tin.
3. Đề nghị phải có kỷ luật thích đáng với những ai nhận tin và đưa tin thiếu chuyên nghiệp. Đồng thời, rút kinh nghiệm trong các hoạt động lần sau.

Trân trọng cảm ơn Ông!

Linh mục quản xứ Cồn Sẻ
Hoàng Anh Ngợi

TB:
- Gửi Ông Tổng Giám Đốc Đài Truyền Hình Việt Nam (1 bản)
– Gửi văn phòng Toà Giám mục Xã Đoài (1 bản)
– Và Lưu văn phòng giáo xứ Cồn Sẻ

Nguyễn Quốc Quân 'không nhận tội'

Nguồn BBC

 Cập nhật: 13:13 GMT - thứ tư, 30 tháng 1, 2013

Ông Nguyễn Quốc Quân bị bắt hồi tháng Tư vì tội 'khủng bố', nhưng sau đó đổi sang tội danh 'lật đổ chính quyền'

Vợ nhà hoạt động người Mỹ gốc Việt nói chồng bà 'không nhận tội', trái với tuyên bố của Việt Nam sau khi trục xuất ông Nguyễn Quốc Quân.

Bà Ngô Mai Hương, vợ ông Quân, nói chuyện với BBC ngay sau khi trò chuyện với chồng qua điện thoại ngày 30/1.

Đến cuối ngày 30/1, máy bay đã đưa ông Quân từ Việt Nam sang Đài Bắc và dự kiến ông sẽ sớm về đến Mỹ.

Thông cáo từ Bộ Ngoại giao Việt Nam nói ông Quân đã "nhận tội" và muốn được khoan hồng để về đoàn tụ với gia đình.

Nhưng bà Hương nói: "Nếu anh nhận tội, anh đã về từ chín tháng trước."

"Việc anh Quân nhận tội chỉ có trên báo Việt Cộng, chứ không đúng. Tôi đã nói chuyện với anh Quân, không có chuyện đó."

Sức ép

Trong khi đó, ông Đỗ Hoàng Điềm, chủ tịch Đảng Việt Tân, cho rằng lý do chủ yếu khiến Việt Nam bất ngờ thả ông Nguyễn Quốc Quân là do sức ép quốc tế, đặc biệt sau vụ xử 14 người Thiên Chúa giáo ở Nghệ An.

Việt Nam trục xuất ông Quân, bị bắt từ tháng Tư năm ngoái, hôm 30/1 và ông được đưa lên máy bay rời Việt Nam cùng ngày.

"Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phần nào bị bất ngờ trước phản ứng mạnh mẽ, nên khá lúng túng. Họ phải hoãn phiên xử anh Quân ngày 22/1 và một tuần sau, thả anh Quân."

Hồi tháng Tư, Bộ Công an Việt Nam loan báo đã bắt tạm giam ông Quân, thành viên Đảng Việt Tân bốn tháng vì họ phát hiện "âm mưu" của ông Quân định kích động biểu tình chống chính quyền nhân dịp kỷ niệm ngày 30/4.

Báo Công an Nhân dân lúc đó đã đăng bài với tiêu đề 'Thất bại mới của tổ chức phản động Việt Tân', lên án "bản chất cố hữu' của Việt Tân và ông Quân là khủng bố.

Bài báo nhắc lại ông Quân đã từng bị kết tội "khủng bố" một lần vào năm 2006 khi ông từ Campuchia xâm nhập vào Việt Nam phát tán truyền đơn và bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kết án 6 tháng tù.

Vào tháng Tám, chính quyền Việt Nam gỡ cáo buộc khủng bố theo điều 84 Bộ Luật hình sự đối với ông mà thay vào đó là tội 'Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân' theo điều 79.

Thời gian qua, Hoa Kỳ đã liên tục kêu gọi trả tự do cho ông Quân với lý do ông chỉ là một nhà đấu tranh cho cải cách dân chủ bất bạo động ở Việt Nam.

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Nguyễn Ngọc Già – Thư gửi đảng Việt Tân

Nguồn danluan

Thưa quý vị đảng Việt Tân!

Khi nghe tin TS. Nguyễn Quốc Quân "bị" trục xuất về Mỹ [1], lẽ ra tôi nên có lời chúc mừng như thông lệ, sau gần cả năm TS. Quân phải hy sinh tự do và chấp nhận nhiều thiếu thốn trong nhà tù CS, tuy nhiên, suy cho kỹ chẳng có gì ngạc nhiên để chúc mừng, bởi việc này không nằm ngoài dự đoán của nhiều người quan sát.

Giới cầm quyền VN, trước sau cũng phải trả tự do cho ông Quân mà thôi, bởi họ hiểu [2]:

"Sẽ là một thảm họa cho Việt Nam nếu họ dám trừng phạt một công dân Hoa Kỳ bằng một bản án nặng nề chỉ vì ủng hộ nhân quyền trong hòa bình" – Linda Malone, một giáo sư tại Trường Luật William và Mary, người tư vấn cho luật sư bảo vệ Quan cho biết. "Họ sẽ phải chịu một mất mát hết sức lớn vào những gì mà họ từng nỗ lực để vươn lên".

Lời bình luận của bà GS. Linda Malone làm tôi vừa cảm thấy vui vừa cảm thấy nhục và tủi. Vui đây là vui vì giới cầm quyền Việt Nam biết sợ… người giàu (!). Nhục đây là nhục khi đứng trước dân vừa giàu, vừa giỏi, vừa … dữ :) giới cầm quyền Việt Nam biết phải hạ mình. Tủi đây là tủi cho tôi (và hàng triệu người trong nước) là người Việt Nam, nên "giá" … quá bèo so với… người Mỹ!!!

Tôi cảm thấy tiếc đứt ruột những đồng tiền thuế mà người Việt Nam trong nước đang đóng để nuôi cả bộ máy vừa ăn vừa phá cái đất nước còm cõi, đáng thương này!

Thay vì chúc mừng, tôi muốn nói lời cám ơn đến cá nhân và gia đình TS. Nguyễn Quốc Quân nói riêng và đảng Việt Tân nói chung. Lý do cám ơn: Quý vị đã thay mặt những người dân cô thế trong nước "vỗ mặt ĐCSVN" [3] bằng hành động buộc họ phải trả tự do cho TS. Quân. Việc trả tự do cho TS. Quân, nói một cách chính xác: một thất bại thảm hại và được báo trước cho ĐCSVN. Nó là một thất bại tất yếu không tránh khỏi của họ.

Ừ thôi! Bản chất của bọn gian hùng, lưu manh, lừa đảo, vô học thì đời nào cũng vậy, phải không thưa quý vị? Chắc quý vị cũng chẳng lấy gì làm băn khoăn về thói "cà cuống chết đến đít còn cay" qua giọng lưỡi "vì lý do nhân đạo" của mấy ông "đầy tớ"… "nhà tôi"!

Nhân đây, tôi muốn bày tỏ lòng cảm kích của cá nhân tôi về tính kiên trì của TS. Nguyễn Quốc Quân và đảng Việt Tân với những chuyến đi về nhọc nhằn như thế này.

Tôi cho rằng, những chuyến đi về này nên được tiếp tục thực hiện nhiều hơn, thường xuyên hơn từ nhiều đảng viên của quý vị, bởi nó đạt được hiệu quả quan trọng:

- Tạo tính chính danh và quảng bá danh tiếng của Việt Tân cũng như của những tổ chức chính trị khác. Tính chính danh của quý vị càng cao, đồng nghĩa bộ mặt ngụy danh của CSVN càng bị lột trần trước mắt dân chúng và thế giới.

- Thông qua nhiều chuyến đi về Việt Nam như đi chợ rồi bị bắt [*], bị tung lên báo, lên tivi là "khủng bố", âm mưu lật đổ", rồi cuối cùng buộc phải thả dù bất kỳ lý do nào v.v… vô hình chung giới cầm quyền VN tự phơi bày nỗi bất lực của họ. Thất bại của họ chính là thành công của quý vị. Song song đó, làm cho người dân trong và ngoài nước càng thấy hình ảnh "bắt cóc bỏ dĩa" ngày càng trở nên hài hước, mất tác dụng. Nó cũng tạo cảm giác "thuốc đã lờn" cho ngay cả những viên CAM hàng ngày đối diện với các trang báo tự do để rình rập mà suy ngẫm lại trước việc làm vô đạo của ĐCSVN mà cải tà quy chánh, quay về với nhân dân.

- Một khi giới cầm quyền Việt Nam chẳng thể ngụy tạo hay vu khống gì thêm được nữa, bởi ngoài những trang sách, laptop mà không có một thứ công cụ nào liên quan đến bạo lực, thì điều 79, 88 càng trở thành trò hề thật thuyết phục đối với tất cả. Hình ảnh này càng làm nổi rõ tính bạc nhược, đê tiện và vô sỉ của giới cầm quyền Việt Nam đối với những tù nhân lương tâm.

Lại một mùa xuân sắp tới! Nghĩ về hình ảnh TS. Nguyễn Quốc Quân quây quần ấm cúng bên gia đình, bạn hữu mà tôi rưng rưng nước mắt nhớ về các tù nhân lương tâm khác, sau cánh cửa sắt nặng nề và lạnh lùng, đang nằm chèo queo trên nền đất lạnh!

Nhân dịp tết Nguyên Đán, kính chúc quý vị cùng gia quyến một năm mới an khang và tiếp tục dấn thân bằng những chương trình hành động thiết thực, hiệu quả để chung tay giải cứu người dân trong nước chúng ta và bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ đất Mẹ, trước bọn giặc Tàu tham tàn thâm căn cố đế cùng những kẻ ngụy danh đang manh tâm chống lại dân tộc.

Nguyễn Ngọc Già
_______________

[1] Trục xuất Nguyễn Quốc Quân khỏi Việt Nam (Dân Luận)

[2] Sự chậm trễ của cuộc họp nhân quyền Mỹ-Việt cho thấy mối quan hệ giữa hai nước đang nhạt dần vì Hà Nội đàn áp các nhà đấu tranh (Dân Luận)

[3] Nguyễn Ngọc Già – Vỗ mặt đảng Cộng sản Việt Nam! (Dân Luận)

[*] Đố họ dám đánh đập, hành hung công dân nước khác. Ai cũng biết, những tên tham tàn, lưu manh chỉ giỏi đày ải và hiếp đáp dân trong nước mà thôi. Thế nên tác giả Đồng Phụng Việt mới gọi nó là "ác với dân", còn tôi thì gọi nó là "quân khôn nhà dại chợ".

“Bên thắng cuộc” viết cho ai? Ai cần đọc BTC? (gocomay)

Nguồn gocomay

conflictPhải nói sau khi đọc xong cuốn 2 của "Bên thắng cuộc", có tựa đề "Quyền bính", tôi như vừa tận hưởng "bữa tiệc" thông tin rất ấn tượng. Mà từ trước tới nay chưa được tham dự bao giờ.

Có một số ý kiến cho rằng, tác giả Huy Đức chỉ bày biện các sự kiện theo kết cấu có chủ ý một cách thật tự nhiên mà không bình luận gì nhiều… nên tác phẩm thiếu đi tính "hàn lâm". Nhưng theo tôi, ở 2 cuốn sách này, Huy Đức đã đạt tới một thủ pháp rất cao trong cách thể hiện của một nhà báo có tầm nhìn theo phương pháp làm báo hiện đại. Đó là sự tôn trọng độc giả, tránh sự áp đặt chủ kiến của tác giả lên hiện thực khách quan của lịch sử. Khiến độc giả thay vì thụ động tiếp nhận thông tin, lại có thể chủ động tham gia vào từng sự kiện. Để tiếp nhận nó một cách chủ động, tùy theo trình độ, khả năng và cảm thụ riêng biệt của mỗi người.

Lại có ý kiến nhận xét, tác giả Huy Đức giành nhiều thiện cảm với các ông Võ Văn Kiệt và các cộng sự đắc lực của ông. Song nếu tinh ý, ta sẽ thấy, tác giả không hề né tránh khi đề cập tới trách nhiệm của ông Võ Văn Kiệt trong việc ký 2 nghị định gây nhiều hệ luỵ về mở rộng hoạt động của Tổng cục II (96/CP) và nghị định quản chế tại gia những người bất đồng chính kiến (31/CP).

Cố TT Võ Văn Kiệt trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 - Ảnh: Nguyễn công thành

Cố TT Võ Văn Kiệt trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 – Ảnh: Nguyễn công thành

Nhược điểm nữa rất cơ bản ở ông Kiệt là không những chỉ mải lo về chính sách phát triển kinh tế mà xem nhẹ công tác nhân sự (để cho Trần Đình Hoan tác oai tác quái). Với cương vị thủ tướng ông đã buông lơi cả về quốc phòng, an ninh và ngoại giao cho Lê Đức Anh thoả sức tung hoành. Rồi cả những lem nhem trong chuyện "quan hệ bất chính" (quan hệ ngoài hôn nhân) của Võ Văn Kiệt với bà Hồ Thị Minh (người dự kiến sẽ "giúp việc" cho cụ Hồ) ở chiến khu Việt Bắc. Người con ngoài giá thú Phan Thành Nam (với bà Minh) cũng được Huy Đức đưa vào tác phẩm khá chi tiết, khi mà tất cả các tài liệu chính thống đều né tránh.

Một người nữa, được cho là Huy Đức ưu ái, đó là vị Đại tướng Tổng tư lệnh – Bí thư Quân uỷ (một thời) – Võ Nguyên Giáp. Song cứ đọc những dòng sau đây, ta sẽ thấy tác giả đã rất khách quan đối với nhân vật lịch sử này:

Hình minh hoạ tướng Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15/5/1972

Hình minh hoạ tướng Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15/5/1972

"Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông."

Không chỉ có Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến ở miền Nam trước 30.04.1975, cho dù cả 2 ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ o ép tướng Giáp một cách quyết liệt bằng việc cho bắt tất cả những cộng sự thân tín của ông Giáp trong cái gọi là "Vụ án xét lại chống đảng". Nhưng vai trò của tướng Giáp trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng và Bí thư Tổng Quân uỷ TW trong Tổng hành dinh chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Hà Nội là không ai có thể thay thế được. Vậy mà uy tín và sinh mạng của tướng Giáp dưới cái nhìn của TBT Lê Duẩn và Trưởng Ban Tổ chức TW Lê Đức Thọ thật rẻ rúng:

"Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: "Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao". Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: "Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm".

(trích chương 15: tướng Giáp – Cuốn 2: Quyền bính)

Cho nên trong thời điểm tướng Giáp được giao nhiệm vụ phụ trách UB Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ngoài dân gian đã lưu truyền vế câu đối: "Ba mươi năm chiến tranh tướng Võ không còn Nguyên mảnh Giáp" là vậy! Bởi, khi "thanh gươm trận" sắc bén của ông đã không thể bảo vệ được các chiến hữu và cả bản thân mình, hào quang của vị "Anh Cả Quân Đội" thật sự chỉ như thứ "nắng quái chiều hôm" trong mắt những kẻ nắm "Quyền bính" thật sự. Nếu tướng Giáp không "hèn" trước song Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), chắc chắn số phận của ông sẽ đoản mệnh như hai vị tướng lừng danh nơi trận mạc (Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn) chí cốt của ông (?)

quyền bínhĐóng góp rất đáng ghi nhận của Bên thắng cuộc (BTC) là đã trả lại một phần quan trọng sự thật của lịch sử hiện đại của Việt Nam (nhất là sau 30.04.1975) như vốn dĩ nó có. Chứ không phải bằng sự thêu dệt nhằm mục đích tuyên truyền của bất kỳ phe nhóm nào. Bởi vậy, sau khi đọc xong BTC, ta càng thấy không lạ những cây viết qúa gượng gạo (theo đơn đặt hàng) khi cho rằng tác phẩm của Huy Đức là "thiên kiến"; "thiên lệch"; "bóp méo"; "nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu"; là "chém gió". Có ý kiến của quan chức còn lấp lửng răn đe "sẽ xem xét BTC dưới góc độ của Nghị định 97/CP".

Đối với những người chưa hề (chưa thèm) đọc tác phẩm mà đã hô hào và tích cực chống cuốn sách, thật chả đáng để chúng ta bận tâm nhiều.

Có vài chi tiết vụn vặt ở phía các tướng lãnh của VNCH như tướng Lê Văn Hưng (chuẩn tướng  – Phó tư lệnh Quân Đoàn IV) dùng súng bắn vào ngực (tim) hay bắn vào đầu? hiện vẫn chưa chính xác. Đặc biệt cách dùng từ "tuẫn tiết" (như Huy Đức dùng) hay "tự tử" (vì sợ bị trừng trị của một số ý kiến phò bên thắng cuộc) cũng có gây tranh cãi. Mặc dù vậy, những cái chết can đảm, trọng danh dự của các tướng VNCH (dù bằng sung hay bằng thuốc độc) trong và sau thời điểm 30.4.1975 như tướng Nguyễn Khoa Nam; Lê Văn Hưng; Trần Văn Hai; Phạm Văn Phú; Lê Nguyên Vỹ… cũng đáng để cho những ai yêu hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc suy ngẫm. Bởi không chỉ sự thật mà cả tình thương yêu giống nòi mới có thể là phương thuốc qúi nhằm "chữa lành các vết thương cũ". Chứ hận thù và cố chấp sẽ chả bao giờ lấp được cái "hố ngăn cách" vốn đã qúa sâu giữa những cựu thù.

130128150319_le_duan_464x261_leduan_nocreditNgoài thái độ ngạo mạn của cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ, bỏ ngoài tai lời khuyên can hợp lý của tướng Giáp trong đợt Mậu Thân 1968, dẫn tới sự tổn thất nặng nề cả quân và dân trên toàn miền Nam. Nhờ phần phụ lục của cuốn 2 (Quyền bính) của BTC mà ta mới thấy rõ hơn chân tướng nhà độc tài hiếu chiến Lê Đức Thọ đã cư xử vô lối tới mức nào với trận chiến khốc liệt ở Quảng Trị: "Theo tướng Lê Phi Long, trong thời gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: "Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu, không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với ai, hình như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó…". Chính sự chớ trêu này mà: "Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân miền Bắc đã gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: "Lực lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ còn phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đã phải rời giảng đường để nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách tuyệt vọng, còn các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Ta đã tung hết lực lượng, đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả quân".

imagesVậy mà những màn vừa diễn ra về cái gọi là "kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris thắng lợi" của hệ thống tuyên truyền lề đảng ầm ĩ suốt cả tuần qua vẫn cho rằng Lê Đức Thọ là nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà quân sự bậc kỳ tài. Trong khi bất chấp lời khuyên của Tổng hành dinh (của tướng Giáp), cùng với Lê Duẩn nhắm mắt ném quân vào "cối xay thịt" – Thành cổ Quảng trị nghiền nát 1 đại đội/ngày (81 ngày=81 đại đội) mà kết quả của hòa đàm cũng chỉ là những điều khoản do phía Mỹ đưa ra từ thời gian trước đó. Để minh định cho sự thật này, tác giả Pierre Asselin từ Hononulu gửi cho BBC ngày hôm qua (28.01) đã chỉ ra rằng:

"Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là Lê Duẩn, đã mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu."

Ở một đoạn khác Asselin phân tích:

"Hà Nội đánh giá thấp quyết tâm bảo vệ lợi ích của Tòa Bạch Ốc ở Việt Nam. Đợt đánh bom Giáng sinh ở Hà Nội và Hải Phòng gây chấn động tâm lý‎ cho Hà Nội, chưa kể thiệt hại vật chất. Vài ngày sau khi Hà Nội cam kết trở lại bàn thương lượng và Nixon tạm dừng đánh bom, hội đàm mở lại ở Paris.

Sự thực tế của Hà Nội, việc họ muốn kết thúc đàm phán, chấm dứt chạm súng, thể hiện rõ qua sự sẵn lòng có những nhượng bộ mới, nhất là ngôn ngữ về tình trạng khu phi quân sự sau khi ngừng bắn. Nếu Hà Nội đã có những nhượng bộ này ngay từ đầu tháng 12, cuộc đánh bom Giáng sinh đã tránh được."

(http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/01/130128_pierre_asselin_paris1973.shtml)

Có một điều thú vị nữa mà những ai chưa được đọc "Hoa xuyên tuyết" của tác giả Bùi Tín thì chưa hiểu được sự trắc ẩn trong con người cố TBT Nguyễn Văn Linh. Một người mà có thời được cho là linh hồn của công cuộc "đổi mới" và "cởi trói" sinh hoạt văn nghệ ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Sau khi đọc xong cuốn 2 (Quyền bính), với những giữ kiện khá đầy đủ, ta mới thấy đây chính là con người ít học, bảo thủ, định kiến và thù vặt nhỏ nhen với tầm nhìn vô cùng thiển cận. Cho dù đời tư khá thanh bạch chính liêm. Nguyễn Văn Linh và những nhân vật bảo thủ giáo điều như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng… đã bóp chết tư tưởng dân chủ đa nguyên xuất hiện ở xứ ta hồi cuối thập niên 80s ngay từ trong trứng nước.

Vợ chồng cố TBT Nguyễn Văn linh - Hồ Thị Huệ thời trẻ.

Vợ chồng cố TBT Nguyễn Văn linh – Hồ Thị Huệ thời trẻ.

Công cuộc "đổi mới" với những bài báo ký tên NVL dưới thời ông Linh trị vì thực chất chỉ nhằm nâng cao vị thế của Tổng bí thư (vốn "cách nhau chỉ bằng sợi tóc" như chính lời ông Linh nói lúc nhậm chức). Để rồi sau đó quay lại hoàn toàn với giáo điều "ý thức hệ" một cách tai hại và phải chui vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là "Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 5 bắt đầu". Đó là về chính trị. Còn lĩnh vực kinh tế, với tư duy giáo điều về con đường đi lên CNXH, thành phần kinh tế nhà nước vẫn cứ nắm vai trò "chủ đạo" cho dù làm ăn thua lỗ, thất thoát do không tự bơi được trong cơ chế thị trường tự do. Luôn cần "phao bơi" chả khác thời bao cấp. Cái gọi là "đổi mới" thực ra chỉ là giải pháp tình thế khi bầu sữa "viện trợ của Liên Xô" không còn. Nhiều nơi trong nước thiếu đói tới mức có người đàn ông phải cắt bắp chân của mình để nấu cháo cứu đói cho các con. Những cảnh rùng rợn như trong "Cái đêm hôm ấy đêm gì" (Phùng Gia Lộc), chỉ khi được phanh phui, người dân mới được đảng và nhà nước "đổi mới tư duy" cho bung ra làm ăn tự do để khỏi chết đói.

Khi có chút của ăn của để nhờ mở ra đa thành phần về kinh tế mang lại thì giới bảo thủ lại sợ "chệch hướng", lại thít. Nhất là việc đưa vào Bản sửa đổi Hiến pháp 1992 điều 4 (giống điều 6 của thây ma hiến pháp Liên bang Xô Viết) về sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS. Đặc biệt vẫn qui định đất đai thuộc "Sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý". Như thế cái gọi là "đổi mới" theo "cơ chế thị trường định hướng XHCN" thực ra chỉ là trò bịp để cho những kẻ nắm quyền bính đè đầu cưỡi cổ hòng "ăn trên ngồi trốc" và "vinh thân phì gia" trên xương máu và mồ hôi nước mắt của muôn dân.

Như một qui luật tất yếu "cùng tắc biến", những bế tắc về kinh tế hiện nay, biết đâu lại là cơ may cho sự thay đổi toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị. Đồng hành với những đóng góp rất trách nhiệm của hàng ngàn trí thức và nhân sỹ tiến bộ vào Bản dự thảo hiển pháp sửa đổi đang trong giai đoạn lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, cuốn sách BTC của Huy Đức do tác giả tự phát hành vào dịp này thật rất kịp thời. Nó không chỉ dừng lại ở việc công bố sự thật để "giúp chúng ta tìm ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới" như tác giả bộc bạch ở chương cuối (chương 22 – Cuốn 2: Quyền bính) với đoạn kết sau đây:

Nhớ khi "cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội", Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân thì đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc. 

images770206_16Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì"(629). Không thể phủ nhận tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng. 

Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình."

Thiết nghĩ, đó là tất cả tâm lành của một nhà báo dấn thân, không còn muốn "trú ngụ trong sự sợ hãi" luôn trăn trở và lao động miệt mài hàng chục năm dòng mới có được. Vậy "công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước…" (như ý kiến của giáo sư Chu Hảo – NXB Tri thức, Hà Nội) đã viết cho ai? Và ai cần đọc Bên thắng cuộc nhất?

Xin nhường lại cho người có trách nhiệm cao nhất của chế độ, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các ông trong Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (nếu qúi vị thật lòng muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh… ) trả nhời giùm!

Gocomay

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

Bùi Tín - Xây dựng Hiến pháp mới

Nguồn VOA

28.01.2013

Việc nhân dân góp ý để xây dựng Hiến pháp 2013 đang được thực hiện. Ý định của lãnh đạo đảng và nhà nước là lấy ý kiến nhân dân trong ba tháng (từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 3) dựa vào bản dự thảo đã được công bố. Bản tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân sẽ được trình bày tại phiên họp Quốc hội vào giữa năm nay, sau đó bản dự thảo được sửa đổi bổ sung cuối cùng sẽ được Quốc hội xem xét và biểu quyết tại phiên họp trong tháng 10.

Nhưng công việc không đơn giản như thế.

Ngay sau khi bản dự thảo đầu tiên được công bố, đã có ý kiến khá gay go về quá trình xây dựng bản dự thảo cũng như nội dung của bản dự thảo này.

Trước hết đã có ý kiến của hàng ngàn trí thức tiêu biểu yêu cầu kéo dài thêm thời gian lấy ý kiến của nhân dân, vì 3 tháng xem ra không thể đủ. Lý lẽ của ý kiến này là Hiến pháp cực kỳ hệ trọng, nhất là khi toàn dân mong muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thật sự, việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trở nên nền tảng của cuộc sống toàn dân. Do đó, không thể làm hình thức, qua loa được.

Một bộ phận không nhỏ trong nhân dân không hài lòng với bản dự thảo vừa công bố, vì tuy đề ra hàng trăm điều sửa đổi, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua những thay đổi cơ bản cần thiết và cấp bách nhất. Trong những ý kiến này, có 2 đề nghị cực kỳ quan trọng rất khó lòng bác bỏ, đó là đổi tên gọi từ Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) thành Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) như trước đây; đồng thời có ý kiến yêu cầu đảng Cộng sản Việt Nam nên chọn cho mình một tên gọi khác thích hợp với thực tế và khoa học hơn.

Hiện nay VN gần như là nước duy nhất còn mang danh xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trung Quốc vẫn là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cuba nay là nước Cộng hòa Cuba. Libya đã từ bỏ danh xưng XHCN. Miến Điện cũng không còn tự gọi là một nước XHCN nữa.

Hơn nữa hiện nay chưa ai chỉ ra được hình  thù chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) ở nước ta nó ra sao, mang những đặc điểm cụ thể gì, bao lâu nữa sẽ hình thành, qua mấy kế hoạch 5 năm, qua mấy chiến lược 10 năm. Trong Hiến pháp không thể ghi những khái niệm chung chung, mơ hồ, xa vời. Hơn nữa CNCS kiểu Mác-Lênin trong thực tế đã bị phá sản triệt để ở Liên Xô cũ và Đông Âu; vài nước còn theo chủ nghĩa này đang lâm vào  tình trạng khủng hoảng cả trên lý luận lẫn thực tiễn. CNCS đã bị lên án là một sai lầm khủng khiếp của lịch sử, là tội ác chống nhân loại, với hơn một trăm triệu nạn nhân được ghi rõ trên một tượng đài kỷ niệm ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ. Trên khắp châu Âu, CNCS kiểu Mác-Lênin cũng bị cấm truyền bá và bị coi là tội ác lớn hơn cả tội ác của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Vậy thì đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)có nên giữ tên gọi như cũ, vẫn khẳng định trung thành với học thuyết Mác-Lênin, vẫn kiên định CNXH kiểu Mác-Lênin hay không? Lẽ phải, khoa học, uy tín của đảng, danh dự dân tộc, thể diện quốc gia đều yêu cầu phải sửa đổi.  

Có ý kiến nên tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý gọn, nhanh về vấn đề trên vì đã chin trong lý lẽ, trong dư luận rồi.

Nếu đổi tên nước thành Nước VNDCCH thì sẽ có sự thay đổi tận gốc rễ từ chế độ độc đảng sang chế độ đa đảng, sẽ cần một đạo luật để sự chuyển đổi diễn ra trong luật pháp, trật tự, từ đó sẽ phải sửa rất  nhiều điều khoản cho đồng bộ. Hiến pháp hiện hành, nếu được sửa đổi một cách cơ bản, hoặc tốt hơn nữa là được thay đổi bằng một văn kiện hoàn toàn mới theo đúng mệnh lệnh của đất nước, ý nguyện của toàn dân, và yêu cầu của thời đại, sẽ mang lại một diện mạo mới mẻ cho đất nước. Sự chuyển đổi này có giá trị như một cuộc cách mạng dân chủ sâu sắc.

Ngoài ra có mấy vấn đề hệ trọng khác cần được trao đổi, đối thoại rộng rãi trong dư luận. Đó là vấn đề sở hữu nhiều thành phần về ruộng đất như tại hầu hết các nước khác, từ đó khôi phục quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất vốn có từ xưa;  vấn đề tách rời ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để có kiểm soát và cân bằng quyền lực;  vấn đề không coi sở hữu quốc doanh là chủ đạo trong nền kinh tế chung …

Mới có vài tuần lễ bản dự thảo được đưa ra công luận, đã có phản ứng và hồi âm ngay. Đã có yêu cầu
mạnh mẽ, dứt khoát chuyển thật sự sang một chế độ dân chủ đa nguyên. Trong số người đông đảo đã ghi tên đóng góp ý kiến, người ta thấy có những nhân vật rất nổi tiếng, mới cũng như cũ, thuộc cả hai giới nam nữ, từ mọi miền Bắc, Trung, Nam, thuộc mọi lứa tuổi, có cả người ngoài đảng CS và trong đảng. Lý lẽ của họ rất rõ ràng, lập luận công phu, Ban Lý luận Trung ương,  và 900 "lý lẽ viên" của Thành ủy Hà Nội khó lòng bác bỏ nổi.

Lúc này chính là lúc Bộ Chính trị cần lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân hơn lúc nào hết. Bộ Chính trị đã bỏ qua quá nhiều thời cơ và lãng phí quá nhiều thời gian của đất nước. Hãy lắng nghe tiếng nói của nông dân bị mất ruộng đất, của các nhà kinh doanh nhỏ và vừa bị chèn ép, của tuổi trẻ nhiều ước mơ bị vùi dập. Trong khi đó, nạn tham nhũng  đang ngang nhiên hoành hành, xã hội băng hoại vì kỷ cương buông lỏng từ trên cao, y tế xuống cấp, giáo dục lạc hậu, đều liên quan đến tệ quan liêu, độc đoán, thiếu vắng dân chủ.

Trong công cuộc sửa đổi Hiến pháp, tạo ra Hiến Pháp Dân chủ năm 2013, có thể nói trên thực tế đã hình thành 2 nhóm lãnh đạo đối lập nhau. Một bên là lãnh đạo của đảng CS mà đại diện chính là Bộ Chính trị hiện nay, có vẻ như không mặn mà với việc sửa đổi Hiến pháp, hài lòng với bản dự thảo hiện tại, gồm có hàng trăm thay đổi vụn vặt, thứ yếu, tránh né những thay đổi cơ bản cần thiết đã hoàn toàn chin muồi.
Một bên là một số trí thức khá đông đảo, chất lượng cao, không ít người là cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước, một số từng là cán bộ lãnh đạo, cùng thanh niên, phụ nữ, lao động, nông dân, nhà kinh doanh… có trình độ và tâm huyết, mong muốn một cuộc thay đổi đúng mức, theo hướng dân chủ đa nguyên, hòa nhập với thế giới dân chủ hiện đại, có lợi cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

Đây là một cuộc đấu tranh ôn hòa, bằng lý lẽ, qua lập luận, tranh luận, thuyết phục nhau, qua hội họp, bài nói và bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng mở rộng, lấy nhân dân cử tri cả nước làm trọng tài. Đây là dịp để nhân dân ta tập dượt thực thi quyền dân chủ của cử tri trong xã hội, với thái độ ôn hòa, xây dựng, bình đẳng tương kính trong một xã hội văn minh, có hàng ngàn năm văn hiến.

Do có thể có những bất đồng gay gắt, cần đề phòng trước những thái độ nóng nảy, thành kiến, chụp mũ nhau, không lắng nghe rõ ý kiến của nhau, và nên luôn luôn lấy quyền lợi tối cao của nhân dân của đất nước làm trọng.

Đất nước quê hương ta đã qua một thời kỳ chến tranh bi thảm, nay là một dịp quý hiếm để chung sức chung lòng tạo nên một đạo Luật Cơ bản làm nền tảng vững vàng cho một chế độ dân chủ đa nguyên mà nhiều nước đã thực hiện từ thế kỷ XVIII như Hoa Kỳ và Pháp, những gương sáng từng được ghi đậm nét trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước  VNDCCH.

Đảng CSVN đang lãnh đạo đất nước có đóng góp nhưng cũng có nhiều sai lầm trong trách nhiệm của mình, nay có phần trách nhiệm chủ yếu trong việc điều hành xây dựng bản hiến pháp mới năm nay. Quần chúng nhân dân đang thức tỉnh về nền dân chủ đa nguyên ưu việt đặt niềm tin trên vai tập thể trí thức dân tộc đã có sáng kiến đề ra những tuyên bố, kiến nghị, lời kêu gọi vừa qua.

Lịch sử sẽ ghi nhận thái độ đúng đắn, trọng lẽ phải, vì nhân dân, thức thời tự nguyện rời bỏ vai trò độc quyền độc tôn lãnh đạo đất nước của Đảng CSVN, chủ động sát cánh cùng toàn dân xây dựng nền dân chủ đa nguyên ưu việt, một bước tiến mạnh mẽ lên phía trước của nền văn minh nhân loại.

Hoàng Hưng : Đảng phải tự lột xác nếu không muốn bị lột xác

Nguồn boxitvn

Xin nói ngay rằng, đầu đề trên tôi lấy từ một ý kiến "góp ý với Đảng" trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm, lúc làn gió "Đổi mới" đang ào ào trên khắp đất nước (chưa bị Đảng chặn lại và cố thổi ngược sau đó). Lúc ấy, nhiều đảng viên cũng như trí thức các cỡ vẫn còn tin/hy vọng Đảng "đổi mới" thực sự và toàn diện.

Nhưng sau một lúc hoang mang trước khủng hoảng chính trị của cả phe XHCN và tạm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhờ đường lối tự do hóa, lại bấu chặt được vào kẻ thù chưa xa bỗng thành ra "bạn vàng" rất gần, Đảng trấn tĩnh lại và hạ quyết tâm chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị. Cho nên câu dự đoán táo bạo trên của một đảng viên tâm huyết tạm thời chưa đúng. Sau 20 năm, Đảng vẫn chưa bị lột xác, mà còn hăm hở lột xác ngày càng nhiều người bất đồng chính kiến.

Đến hôm nay, tình hình ra sao?

Đổi mới kinh tế sau 20 năm thu được một số thành tựu, nhưng đã nhanh chóng thụt lùi và lại đang ở đêm trước của cuộc khủng hoảng mới. Nguyên nhân chủ yếu: Đổi mới nửa vời, có tự do hóa (cho tư nhân kinh doanh) nhưng vẫn kiên trì "thành phần chủ đạo" kinh tế nhà nước. Kết quả đã biết trước: quả đấm "chủ đạo" này đấm thẳng như trời giáng vào nền kinh tế quốc dân.

Giờ Đảng lại phải sửa soạn cuộc "đổi mới" lần hai. Cũng vẫn tư duy cũ: chỉ đổi mới kinh tế (tiến thêm một bước: có thể không còn khẳng định "kinh tế nhà nước" là chủ đạo), còn chính trị thì đổi mới một cách rụt rè e thẹn (nhấn mạnh "trên giấy" quyền con người kèm theo đủ thứ ràng buộc để sẵn sàng tước bỏ trên thực tế,… nhưng vẫn khăng khăng "điều 4" hiến định sự độc quyền của Đảng).

Với tư duy ấy, kết quả những năm tới của đất nước cũng có thể biết trước: Nếu kinh tế nhà nước – tức sự độc quyền kinh tế – đã đấm nát nền kinh tế quốc dân, thì tới đây, độc quyền của Đảng trên lĩnh vực chính trị chắc chắn sẽ làm tan hoang toàn bộ đời sống xã hội vốn đang lao nhanh trên con đường băng hoại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.

Nếu 20 năm trước, Đảng quyết định biến kẻ thù cũ thành "bạn vàng" để bấu vào mà tồn tại, thì tình thế hôm nay không cho phép nữa! Thực tế đã chứng tỏ chính sự bấu víu này là nguyên nhân đẩy nhanh đất nước đến nguy cơ mất mát lãnh thổ, mất quyền tự chủ và nhiều hiểm họa khôn lường khác. Lòng dân đang hết sức bức xúc! Trước nguy cơ đánh mất tính chính danh của một đảng từng tự hào có công giành độc lập dân tộc, Đảng đang rất lúng túng tìm cách thoát ra nghịch cảnh "còn Đảng mất nước, còn nước mất Đảng".

Là một người cầm bút từng chịu sự lãnh đạo của Đảng gần hết đời (không tự nguyện nhưng biết là chưa thể khác, chỉ cố gắng giữ gìn "chút lòng trinh bạch" bằng cách không vào Đảng và không nhận bất cứ bổng lộc nào của Đảng), tôi vẫn băn khoăn "nghĩ hộ" Đảng (vô duyên?) cách thoát ra an toàn (vì nó cũng sẽ an toàn cho toàn dân tộc). Nhiều Đảng viên ưu tú đã chân thành vạch lối ra cho Đảng, nhưng Đảng chưa chịu nghe mà còn sách nhiễu họ đủ điều. Đảng còn quá tự tin vào "chính quyền trên mũi súng" của mình, còn quá khinh thường lòng dân?

Nhưng với bản Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 vừa đây, mới mấy ngày đã thu được hàng ngàn chữ ký, trong đó lần đầu tiên có các cựu quan chức cao cấp và rất nhiều Đảng viên cỡ bự tham gia bất chấp mười mấy điều cấm mà Đảng ban hành, hồi chuông cấp báo đã rung lên! Triệt để và mạnh mẽ hơn hẳn Hiến chương 77 mở đầu cao trào dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 là dấu son lịch sử của cách mạng Việt Nam. Rất có thể nó sẽ dẫn đến một cuộc thanh trừng khủng bố khốc liệt, rất có thể hàng trăm người bị bắt, bị truy bức, bị đưa vào trại "phục hồi nhân phẩm" hoặc "nhà thương điên", bị đụng xe, bị côn đồ hành hung… nhưng sẽ không gì cưỡng nổi ngọn triều dân chủ cuồn cuộn mà Kiến nghị đã phát động.

Vào lúc này, tôi bỗng nhớ đến câu góp ý với Đảng trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm. Tôi muốn lấy lại câu ấy để nói với Đảng nhân ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản ViệtNamra đời (3/2/1930 – 3/2/2013). Với tất cả sự chân thành. Vì nhớ đến những ngày tháng đẹp đẽ trong quá khứ của Đảng, với bao người con ưu tú đã hy sinh thân mình vì nền độc lập, vì nhớ đến lòng tin của bao nhiêu trí thức đã lựa chọn đi theo Hồ Chí Minh trong đó có cụ thân sinh ra tôi, vì nhớ đến những ngày tháng tanh xuân đẹp nhất của mình đã nghe lời kêu gọi của Đảng nguyện lên đường phục vụ công nông binh, vì lòng yêu mến nhiều người thầy, người anh, người bạn đã và đang là những đảng viên trung thực của Đảng. Vì tấm gương Myanmar trước mắt khi nhà độc tài và người đối lập bắt tay nhau xóa bỏ quá khứ hận thù để xây dựng một đất nước của tương lai.

ĐẢNG PHẢI TỰ LỘT XÁC NẾU KHÔNG MUỐN BỊ LỘT XÁC!

Mà trước mắt, hãy bước đi một bước nhỏ nhưng sẽ là bước nhảy vĩ đại: tự xóa bỏ "Điều 4" phi lý nực cười trong Hiến pháp. Nhân đây xin sửa câu nói thiếu thông minh của một người đồng tuế: "Bỏ điều 4 là tự sát"thành "Bỏ điều 4 là tự cứu"!

SG cuối tháng 1/2013

H. H.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

(Dân chủ) Chín muồi tới mức độ nào?… (Nguyễn Gia Kiểng)

Nguồn ethongluan

  • In bài này
Được đăng ngày Thứ hai, 28 Tháng 1 2013 00:18
Lượt xem: 146

"Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức thì không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đã sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy…"

 

 

Tháng 01-2013. Bạn tôi vừa về thăm nhà trong một tháng. Anh ta về Việt Nam rất thường xuyên. Việt kiều tốt, nhiều lần được tuyên dương, hộ chiếu năm năm. Lần này  gặp tôi anh nói một cách sôi nổi: "Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc thay đổi chế độ rồi". Kế tiếp là một tường thuật chi tiết và chính xác về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Anh là một chuyên gia cao cấp và cũng có kiến thức cao về chính trị. Anh rất quả quyết, một trong những lý do là: "Trong suốt một tháng tao không thấy ai không chửi Nguyễn Tấn Dũng". Nhưng khi tôi hỏi: "Liệu có chín muồi đến độ dân chủ có thể thắng mà không cần một tổ chức dân chủ mạnh không?" thì anh như bị mất hứng, vì câu hỏi gợi lại nhiều cuộc thảo luận giữa chúng tôi trước đây.

 

Sự kiện quan trọng nhất trong năm 2012 là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết (1). Chết thực sự dù chưa khai tử. Đó đã là năm mà những cố gắng phi thường đã được đổ ra để chấn chỉnh và cứu đảng, với kết quả là một con số không. Hội nghị trung ương 6, và kỳ họp quốc hội ngay sau đó, đã chứng tỏ một cách hùng hồn rằng căn bệnh của ĐCSVN không có thuốc chữa.

Đối với đời sống dân chúng sự kiện quan trọng nhất là kinh tế sa sút. Sa sút rất nặng dù chính quyền vẫn còn biện luận lúng túng đàng sau những con số thống kê giả tạo. Đà suy sụp là chắc chắn và không thể đảo ngược được vì chế độ CSVN đã bị các nước dân chủ và các nhà đầu tư nhìn như một chế độ côn đồ trong khi kinh tế Việt Nam quá phụ thuộc ngoại thương. Năm 2013 rất có thể sẽ là năm mà kinh tế phá sản, kéo theo những thảm kịch tương tự như trong thập niên 1980. Khác ở chỗ quần chúng Việt Nam ngày nay có sức mạnh hơn, hiểu biết hơn và ít sợ hơn. Bạo loạn có thể bùng nổ.

Đối với những người dân chủ năm 2012 đã là năm gia tăng đàn áp. Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) làm gì mà bị xử 12 năm tù sau khi đã ở tù ba năm? Điếu Cày viết rất ít và những gì anh viết ra cũng không thách đố chính quyền. Điếu Cày và Tạ Phong Tần bị trừng phạt nặng vì họ bị coi là đầu tàu của một tổ chức đang thái nghén: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố là nhất định không để "nhen nhúm" những tổ chức đối lập. Một tội nặng khác của Điếu Cày và Tạ Phong Tần là họ đã xuất hiện như những người dẫn đầu các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Năm 2012 cũng đã là năm mà chính quyền CSVN khẳng định đứng hẳn về phía Trung Quốc. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một trong vài người nhiều quyền lực nhất hiện nay, tuyên bố thẳng thừng: "Việt Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực ". Không còn bất cứ băn khoăn nào dù Trung Quốc cắt dây cáp tầu thăm dò địa chấn của Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam, tiếp tục khủng bố ngư dân Việt Nam và cho in hình Hoàng sa, Trường Sa và cái lưỡi bò lên hộ chiếu. Không còn băn khoăn vì một lý do giản dị là không được quyền băn khoăn nữa, họ đã chấp nhận phục tùng Trung Quốc vô điều kiện. Chọn lựa ô nhục và tai hại này dĩ nhiên là nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận và có hậu quả là đổ thêm dầu vào lửa phẫn nộ của nhân dân.

Tóm lại nhân dân phẫn nộ và không còn sợ như trước nữa trong khi chính quyền đã quyết định đàn áp thẳng tay. Xung đột chính quyền – nhân dân đã đi vào logic leo thang trong khi chính quyền cộng sản đã rạn nứt dưới trọng lượng của những xung đột nội bộ. Bạn tôi quả là có lý do để nghĩ rằng Việt Nam đã chín muồi cho cuộc cách mạng dân chủ.

Câu hỏi của tôi làm anh khựng lại bởi vì chúng tôi đã từng là chí hữu. Cách đây ba mươi năm chúng tôi đã cùng tham gia thành lập một nhóm chính trị sau này mang tên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Trừ hai chuyên gia mà anh bạn là một, tất cả đều là những cựu viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Công Hòa đã suy nghĩ rất nhiều trong tù sau ngày 30-4-1975. Đồng thuận đầu tiên của chúng tôi là nhất định phải thay đổi chế độ thì đất nước mới có thể tồn tại và vươn lên, nhưng cũng không thể có vấn đề phục hồi chế độ VNCH; đấu tranh chính trị từ nay chỉ có ý nghĩa và hy vọng nếu là cuộc đấu tranh vì dân chủ bằng phương thức bất bạo động qui tụ một cách bình đẳng những người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị. Sau đó chúng tôi dành trọn hai năm để nghiên cứu và thảo luận trong tinh thần gạt bỏ mọi trói buộc và thành kiến để khảo sát thực trạng Việt Nam và tất cả những thay đổi chế độ đã diễn ra trên thế giới. Đó đã là hai năm của một cuộc thám hiểm trí tuệ sôi sục và đầy đam mê. Kết luận của chúng tôi là cuộc cách mạng dân chủ sẽ rất dài và khó khăn. Cả hai chuyên gia đều đã rời nhóm sau đó trong tình bạn; họ hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ chung nhưng họ tự thấy không đủ kiên nhẫn. Anh bạn chọn con đường hợp tác để thay đổi chế độ từ bên trong. Anh nói if you can't beat them, join them (nếu không đánh bại được họ thì hãy hợp tác với họ). Anh là một người thực tiễn.   

Trước hết chúng tôi coi chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn và nghiên cứu những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công. Chúng tôi tìm ra bốn điều kiện vừa cần vừa đủ:

1/người dân trong nước đồng thuận rằng chế độ hiện có là tệ hại và phải thay đổi;

2/ đảng hoặc nhóm cầm quyền mất lý tưởng, trở thành đạo tặc, chia rẽ nội bộ và không còn sức sống và khả năng tự vệ của một tập thể;

3/người dân trong nước đồng thuận về một chế độ mới phải có; và

4/có một tổ chức đủ mạnh để làm tụ điểm cho nguyện vọng đổi mới.

Vào thời điểm 1984, khi chúng tôi nhận ra những điều kiện này, tình hình Việt Nam đúng là chưa chín muồi. Người dân trong Nam cũng như ngoài Bắc quả là rất thất vọng với chính quyền cộng sản nhưng đảng cộng sản dù rất bối rối cũng còn khá gắn bó. Mặt khác chưa có đồng thuận dân tộc về một chế độ mới; đa số đảng viên cộng sản vì nhiều lý do khác nhau còn gắn bó với đảng trong khi đa số những người đấu tranh tại hải ngoại chỉ muốn lập lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Trong bốn điều kiện này điều kiện thứ tư, nghĩa là tổ chức, là điều kiện quan trọng nhất và cũng là điều kiện hoàn toàn thiếu vắng, thậm chí còn có những trở ngại. Vì thế chúng tôi đã nghiên cứu và thảo luận nhiều nhất về tiến trình thành lập và hành động của một đảng cách mạng. Và kết luận đã rất đặc sắc. Nó trái ngược hẳn với thành kiến chung không biết từ đâu mà có của trí thức Việt Nam về đấu tranh chính trị. Chúng tôi đã nhận diện năm giai đoạn đấu tranh cách mạng:

1/ xây dựng một tư tưởng chính trị;

2/ xây dựng một đội ngũ nòng cốt

3/ xây dựng và kiểm điểm phương tiện

4/ xây dựng cơ sở quần chúng

5/ vận động quần chúng đứng dậy và tiến công giành chính quyền.

Kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn cho thấy trong năm giai đoạn này hai giai đoạn đầu khó khăn và dài nhất. Phải vài thập niên mới xây dựng được một tư tưởng chính trị đúng nghĩa và một đội ngũ nòng cốt đúng nghĩa, nhưng một khi đã có hai yếu tố này rồi thì tổ chức có thể vận dụng một cơ hội để giành thắng lợi trong vàì năm, thậm chí vài tháng.

Đối chiếu với tình hình Việt Nam chúng tôi nhận định rằng thời gian để xậy dựng tổ chức có thể còn lâu hơn do di sản văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam, nhất là trí thức, không những không có tổ chức mà còn dị ứng với tổ chức, hay nếu có nhìn thấy sự cần thiết của tổ chức thì cũng không hiểu sự khó khăn của nó, và thường nhảy xổ vào giai đoạn vận động quần chúng nổi dậy, nghĩa là giai đoạn cuối cùng của tiến trình đấu tranh. Không khác gì chỉ muốn hái quả mà không chịu trồng cây. Những manh động như vậy chỉ có thể thất bại và gây thất vọng.  Chúng tôi kết luận: dù phải kiên trì trong nhiều thập niên, nghĩa là dài hơn vốn thời gian hoạt động của hầu hết anh em chúng tôi, cũng phải xây dựng tổ chức vì không có chọn lựa nào khác. Chính kết luận này, mà tất cả chúng tôi đều hoàn toàn nhất trí, đã khiến hai anh bạn chuyên gia rời tổ chức. Bình thường người ta chia tay vì không đồng ý, ở đây chúng tôi chia tay vì đồng ý. Chúng tôi vẫn là bạn.

Ngay cả giai đoạn vận động quần chúng mà nhiều người và tổ chức cho là công việc duy nhất của cuộc đấu tranh vì dân chủ cũng không như họ tưởng. Đã có vô số kinh nghiệm và nghiên cứu về chủ đề này và tất cả đều có cùng một kết luận là một khối quần chúng dù đông đảo và bị ức hiếp đến đâu cũng không nổi dậy đánh đổ tập đoàn thống trị. Họ chỉ nổi dậy khi đã hội đủ hai điều kiện :

          - Một là họ ý thức một cách rõ rệt rằng họ là một khối người liên đới với nhau trong một số phận chung đang bị một nhóm người khác ức hiếp. Nói cách khác, một mặt, phải có một giải pháp chung cho tất cả chứ mỗi người không thể luồn lách để tự giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân; và, mặt khác, phải có sự hiện hữu được nhận diện một cách rõ rệt của hai tập thể : một tập thể ta và một tập thể địch.

- Hai là quần chúng chỉ đứng dậy tranh đấu nếucó mộttổ chức để động viên và lãnh đạo họ và tổ chức này phải đủ mạnh để đem lại cho họ niềm tin vào thắng lợi. Quần chúng không lãng mạn.

Chưa xây dựng được một tổ chức mạnh thì không động viên được quần chúng, cùng lắm chỉ động viên được một số nhỏ, rồi thất bại và gây thất vọng, như kinh nghiệm của hơn ba mươi năm qua đã chứng tỏ.

Chuyển động xã hội đưa đến cuộc cách mạng thay đổi chế độ diễn ra như thế nào? Điều kiện thứ hai trong bốn điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công là đảng cầm quyền mất lý tưởng và phân hóa để chỉ còn là một hư cấu, chế độ chuyển từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Từ đó, bất mãn và phẫn nộ tập trung vào một khuôn mặt cụ thể và dễ bộc lộ hơn trong khi đàn áp cũng gia tăng một cách tự nhiên vì quyết định nằm trong tay một người và người đó lại chính là đối tượng bị chống đối. Vòng xoắn leo thang phẫn nộ - chống đối – đàn áp - chống đối này sẽ đưa nhiều thành phần xã hội nhập cuộc đấu tranh cho dân chủ. Kinh nghiệm cho thấy trong hầu như mọi trường hợp chuyển hóa về dân chủ các thành phần này thường nhập cuộc theo cùng một thứ tự đã được nhiều nghiên cứu xác định, đặc biệt là một công trình nghiên cứu rất công phu của Trung Tâm Woodrow Wilson Center, cho đến nay chưa bị phản bác, qui tụ một số lượng đông đảo những nhà nghiên cứu có uy tín trong hơn hai năm từ 1979 đến 1981.

-Đầu tiên là giới văn nghệ sĩ, những người cần tự do nhất để có thể sáng tạo đồng thời cũng là những người có bản chất phóng khoáng và chính quyền cũng không lo ngại. Lớp người này tuy ít và hiểu biết chính trị sơ sài nhưng lại có một khả năng động viên lớn do sức thu hút quần chúng của họ.

-Kế tiếp là thành phần cởi mở trong đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước. Cần nhấn mạnh rằng mục đích ban đầu của thành phần này không phải là thay đổi chế độ mà là bảo vệ chế độ. Một phần vì cảm thấy không được đãi ngộ xứng đáng, một phần vì sáng suốt, họ tin rằng chế độ không thể tồn tại như hiện trạng và họ vận động cải tiến nó để giúp nó tiếp tục tồn tại. Chỉ sau khi những cố gắng này chứng tỏ rõ ràng là tuyệt vọng họ mới đứng về phe dân chủ.

-Sau đó là các tập hợp ngành nghề, như các đoàn thể nhà báo, luật gia, y sĩ, kiến trúc sư, nhà giáo, nhà nông v.v. Tất cả đều bực bội vì ngành nghề của họ bị bế tắc do chính quyền. Đặc tính chung của những chế độ độc tài tham nhũng là tất cả mọi ngành nghề đều bị chèn ép, quyền lợi tập trung trong tay một vài băng đảng tay chân của chính quyền, vì thế mỗi tập thể đều là một trái bom nổ chậm và khi một ngành đứng dậy phản đối thì một cách nhanh chóng các ngành nghề khác cũng hưởng ứng theo.

-Sau cùng là tuổi trẻ, thanh niên và sinh viên. Khi tuổi trẻ đã nhập cuộc một cách đông đảo thì sự sụp đổ của chính quyền là điều chắc chắn.

 

Những nghiên cứu này có thể giúp giải thích biến cố Thiên An Môn năm 1989 trong đó sinh viên Trung Quốc đã nổi dậy và bị tàn sát nhưng sau đó chính quyền cộng sản Trung Quốc vẫn đứng vững. Đó là vì tuổi trẻ Trung Quốc đã nổi dậy bồng bột và đơn độc trong một xã hội chưa sẵn sàng. Con số 10.000 sinh viên trong một nước với 1.300 triệu người cũng là một tỷ lệ quá nhỏ. Chúng cũng giải thích tại sao tình hình Việt Nam đã không chuyển động cho tới nay, đồng thời cho phép đánh giá mức độ chín muồi của tiến trình dân chủ hóa tại nước ta.

Giới văn nghệ sĩ Việt Nam đã bất động; họ không cần tự do vì không có nhu cầu sáng tạo. Văn học và nghệ thuật Việt Nam không sáng tạo và do đó không làm nảy sinh nhu cầu đòi tự do. Điều này chúng ta có thể thấy rõ, văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại không bị kềm kẹp nhưng cũng không có sáng tạo nào dù những thảm kịch của giai đoạn lịch sử vừa qua đã có thể là chủ đề cho những tác phẩm rất lớn, các ca sĩ hát đi hát lại những bản nhạc đã quá cũ về cả nhạc lẫn lời và ý. Chỉ mới gần đây mới có những hiện tượng Việt Khang, Kim Chi v.v. Hy vọng đó là những con én báo mùa xuân.

Các tập thể nghề nghiệp cũng không nhiều tâm sự. Kể cả hai tập thể đông đảo đáng lẽ phải rất đau nhức là giới nhà báo và giới luật gia. Họ bị bắt buộc phải hàng ngày phản bội nghề nghiệp và danh dự của mình, nhà báo phải xuyên tạc, thẩm phán phải xử ngược với luật pháp và lương tâm, luật sư không được bào chữa tận tình. Thậm chí cơ quan lập pháp cao nhất, quốc hội, cũng là cơ quan quyền lực cao nhất trên danh nghĩa, cũng không hề phiền lòng khi luật pháp và hiến pháp bị vi phạm thô bạo. Chắc chắn tuyệt đại đa số "đại biểu" tin chắc rằng vai trò của quốc hội chỉ là để làm công cụ cho chính phủ và không cần thắc mắc.

Vậy phải chăng chỉ còn trông đợi ở những "thành phần sáng suốt" trong đảng và nhà nước cộng sản? Không ít người tin như vậy, nghĩa là Việt Nam chỉ có thể thay đổi nhờ một "Gorbachev Việt Nam" hay là nhờ đảng cộng sản tự vỡ, tự tách. Nếu như thế thì còn phải chờ đợi rất lâu vì các "thành phần sáng suốt" này hoặc chỉ muốn chấn chỉnh đảng để có thể chống lại dân chủ, hoặc chỉ lên tiếng kêu gọi dân chủ một cách rụt rè sau khi đã trở thành những vị "nguyên là". Các xung khắc trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản có và ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đẩy một cấp lãnh đạo thất vọng nào vào hàng ngũ dân chủ.

Một số người, chủ yếu ở hải ngoại, hy vọng khối dân oan sẽ là chủ lực của cuộc tiến công giành dân chủ. Nhưng khối dân oan là một khối cần được giúp đỡ hơn là một lực lượng. Họ không phải là một tập thể liên đới. Họ đi cùng nhau nhưng không có đòi hỏi chung. Họ chỉ có thể hưởng ứng và tăng cường cuộc nổi dậy đòi dân chủ chứ không thể là chủ lực.

Nhưng tại sao các thành phần đáng lẽ phải đi đầu trong đấu tranh dân chủ hóa lại bất động như thế? Đó là vì mọi thành phần xã hội đều phải do trí thức lãnh đạo, nhất là trong kỷ nguyên tri thức này, trong khi trí thức Việt Nam nhất định không chịu đảm nhiệm vai trò của mình. Thay đổi từ độc tài sang dân chủ là một cuộc cách mạng lớn, rất lớn, nhưng trí thức Việt Nam, hậu duệ của giai cấp sĩ ngày xưa, chỉ có văn hoá làm quan chứ không có văn hóa cách mạng, họ được đào tạo và tự đào tạo để làm công cụ cho một chế độ chứ không phải để thay đổi chế độ. Cái kẹt của chúng ta là thế. Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức thì không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đã sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy. Tình trạng này không mới, nó chỉ là sự tiếp nối của một di sản lịch sử và văn hóa. Do ảnh hưởng tồi tệ của Khổng Giáo, một hằng số trong lịch sử Việt Nam và Trung Hoa là những thay đổi chế độ đều hoàn toàn không do kẻ sĩ mà do những vương tôn, những võ tướng hay những anh hùng áo vải xuất phát từ quần chúng.

Trí thức Việt Nam thừa hưởng của giai cấp sĩ ít nhất hai tật nguyền nặng nề.

Một là họ hoàn toàn không có văn hóa chính trị. Những sĩ tử đậu những khoá thi thơ phú vớ vẩn được cử làm quan trị dân để lại cho lớp hậu duệ thành kiến tệ hại là làm chính trị không cần phải học. Trí thức Việt Nam không có kiến thức chính trị không phải vì không học nổi mà vì không thấy cần phải học.

Tật nguyền thứ hai, còn nghiêm trọng hơn, là họ không yêu nước. Tổ quốc trước hết là đồng bào, yêu nước trước hết là quí trọng đồng bào của mình nhưng mộng đời của kẻ sĩ trong hàng ngàn năm đã chỉ là được làm quan để "giúp vua trị nước", nghĩa là làm tay sai cho một bạo quyền để thống trị và bóc lột quần chúng. Trong mỗi trí thức Việt Nam đều mai phục một tên phản quốc. Đó là lý do khiến trí thức Việt Nam không phẫn nộ trước một chính quyền kéo đất nước vào thảm họa một cách hung bạo, hay không đủ phẫn nộ để thấy phải có phản ứng.

Trí thức Việt Nam vẫn chứng tỏ chưa khắc phục được hai tật nguyền truyền kiếp này.

Nói như thế không có nghĩa là đất nước không có lối thoát. Trí thức Việt Nam về kiến thức và kỹ năng không thua kém trí thức nhiều nước dân chủ phát triển.  Họ thiếu ý chí, nhưng ngay về điểm này họ cũng đã thay đổi khá nhiều. Tâng bốc chế độ cộng sản là điều không một trí thức nào còn đủ trơ trẽn để làm nữa. Anh bạn tôi kể chuyện một trí thức khá nổi tiếng từng đóng góp nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản. Vị này nói rằng:"Có lẽ chúng tôi lại sắp phải hy sinh một lần nữa". "Chúng tôi" là những vị "nguyên là" đã từng có danh phận trong chế độ. Hơi muộn, nhưng cũng còn hơn không.

Nhưng hy vọng không phải ở đó. Hy vọng vì một lý do khác. Lớp trí thức cũ có thức tỉnh và nhập cuộc thì càng tốt nhưng họ không còn là thành phần không có không được nữa. Một lớp trí thức mới đã xuất hiện và ngày càng đông đảo. Họ không phải chỉ là những sinh viên. Các sinh viên chỉ là một thiểu số. Trong đại đa số họ là những người ở lứa tuổi 25 – 45, đã tốt nghiệp và đã tự lập. Họ gặp nhau, kết bạn và trao đổi với nhau trên mạng qua các Blog, Twitter, Facebook. Họ đã thất vọng với thế hệ cha anh và có lý. Thế hệ F. Họ ngày càng đông đảo và những trao đổi của họ càng ngày càng có chất lượng. Thực tế cơ bản của Việt Nam hiện nay là đang có hai không gian chính trị, một không gian thực trong đó người ta bắt buộc phải nói dối và một không gian ảo trong đó người ta nói thực. Chính quyền cộng sản khống chế không gian thực nhưng đã bị đánh bật khỏi không gian ảo mặc dù những phương tiện khổng lồ và một đội ngũ công an mạng hùng hậu bởi vì không có gì để nói. Dùi cui và chó nghiệp vụ không thể sử dụng trên mạng. Trong thế giới ngày nay không gian mạng quan trọng hơn hẳn không gian thực và ngày càng áp đảo hơn nữa. Đã thất bại trên không gian mạng thì chắc chắn sẽ thất bại trên thế giới thực. Một sản phẩm của không gian mạng là lớp người mà Việt Nam mong đợi nhưng chưa có: lớp trí thức chính trị. Thắng lợi của dân chủ sẽ tới khi lớp trí thức này đủ mạnh và gắn bó để dắt tay nhau từ không gian mạng bước ra đời thực. Quần chúng đã chín muồi và đang chờ đợi họ.

Bao giờ? Không ai có thể quả quyết, chỉ biết chắc một điều là đặc tính của không gian mạng là sự nhanh chóng.

Chúng ta cũng có thể đóng góp để tiến trình này nhanh chóng hơn. Lớp người lớn tuổi bằng thái độ khuyến khích và hợp tác khiêm tốn. Lớp trẻ bằng cách dứt khoát đoạn tuyệt với văn hóa nhân sĩ của tầng lớp cha anh và quả quyết sống như những con người tự do, quả quyết sống khác với cách cha anh mình đã sống. Họ sẽ hiểu, họ đang hiểu, rằng tự do và dân chủ không bao giờ miễn phí mà luôn luôn đòi hỏi phấn đấu và hy sinh để có. Và một khi đã quyết định đấu tranh tranh thực sự họ sẽ hiểu rằng chỉ có thể giành thắng lợi cho dân chủ nếu xây dựng được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Họ cũng sẽ hiểu phải làm gì và như thế nào trong mỗi chặng đường.

(tháng 01/2013)
Nguyễn Gia Kiểng

(1) Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết!