15/01/2014
Tôi được đọc bức thư ngỏ của ông Nguyễn Thang Giang gửi các ông Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông, Cục trưởng Cục Xuất bản, Chủ tịch Hội Nhà văn, Giám đốc Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn. Thư cho biết: "Ngày 7 tháng 01 năm 2014 Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn cử ông Nguyễn Văn Sơn, cán bộ biên tập, chính thức yêu cầu tôi cộng sự với Nhà Xuất bản thu hồi toàn bộ số tập thơ "Những mẩu quặng dọc đường" đã ấn hành để cắt bỏ toàn bộ phần "Những lời bình" (Từ trang 149 đến trang 191) theo chỉ thị của công văn số 4755/CXB-QLXB do ông Phạm Quốc Chính cục phó Cục Xuất bản ký. Sau khi nghe tôi trả lời việc đó không thể nào làm được nữa vì một số khá lớn đã được biếu tặng hoặc bán trong nước và ngoài nước (một số người ở nước ngoài gửi email đặt mua và tôi đã gửi sách cho họ), ông Sơn khẩn khoản đề nghị nộp cho ông ấy 10 cuốn có cắt bỏ phần "Những lời bình" để Nhà Xuất bản đem nộp lên cấp trên. Tôi phản đối, vì cho rằng như vậy là đối phó một cách hình thức, làm mất phẩm giá con người. Đáng phàn nàn ở chỗ: ai? tổ chức nào? mệnh lệnh nào? đã đẩy Nhà xuất bản Hội Nhà Văn đến chỗ bí và phải nghĩ cách đối phó tiêu cực như vậy? Đề nghị cần có hội nghị giữa Bộ Văn hóa Thông tin, Cục Xuất bản, Hội Nhà Văn và Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn để kiểm điểm rút kinh nghiệm vụ việc này". Tôi nảy tò mò muốn biết nội dung những lời bình ấy thế nào (toàn là của các nhân vật tên tuổi như nhà thơ Thanh Thảo, đương kim Phó Chủ tịch Hội đồng thơ HNVVN, nhà thơ Ngô Văn Phú nguyên Giám đốc NXB HNV…) mà "ghê" thế, "phản động" đến mức nào mà bị "nghiêm trị" thế chứ? Xin nói thêm: tôi cũng là một người được anh Nguyễn Thanh Giang chia sẻ bản thảo tập thơ từ đầu, và đã có "công" góp ý anh sửa đôi chỗ (đơn thuần về nghề thơ). Tôi thích một số bài anh viết về địa chất, về thiên nhiên và sinh hoạt miền núi thời anh là chàng trai địa chất với cảm xúc lãng mạn của thế hệ chúng tôi, và những bài thơ ông-cháu cuối đời thật hiền hậu, đáng yêu. Trong đó có mấy bài hào sảng, mạnh mẽ của người đi chinh phục thiên nhiên với bút pháp hiện đại khá đặc sắc ở thời điểm ấy trong thơ miền Bắc. Và tôi viết cho anh rằng: "cứ theo lối thơ ấy mà đi, anh thừa sức thành một nhà thơ có thứ hạng cao trong Hội Nhà văn VN… nhưng danh tiếng nhà thơ NTG sẽ không thể sánh nổi uy danh của nhà đấu tranh dân chủ NTG". Vậy nên hôm nay, tôi thấy cộng đồng nettizen ta nên "cảm ơn" quý vị ở Ban gì đó hay Cục gì đó đã cho "nhà dân chủ" Nguyễn Thanh Giang một cơ hội để được ta biết đến như một nhà thơ, quá hay so với việc mất tiền in một tập thơ may ra bán nổi vài trăm bản, lỗ vốn! Sau đây, mời các bạn thưởng thức những lời bình "tai hại" hay "thú vị" tùy cách nhìn, về thơ Nguyễn Thanh Giang Hoàng Hưng |
Phần thưởng của nhà thơ
Nhà thơ Thanh Thảo
Phó chủ tịch Hội đồng Thơ
Hội Nhà Văn Việt Nam
Thơ Nguyễn Thanh Giang mộc mạc mà thỏ thẻ với tôi nhiều thú vị. Anh nói đây là tập thơ của cả đời mình. Có lẽ đúng. Vì 3 phần tập thơ thì 2 phần đã "dính" với nghề và nghiệp của anh rồi: nếu phần 1 là "Những mẫu quặng đời" thì phần 3 là "Hành trình địa chất". Anh dành trọn phần 2 cho "Quê hương và đất nước" như mọi người Việt làm thơ yêu nước vẫn dành.
Nguyễn Thanh Giang là một nhà địa-vật lý. Suốt bao nhiêu năm trong đời mình, anh đã có những đóng góp đáng kể cho đất nước qua chuyên môn rộng và sâu của mình. Đó là một người sống chết với từng mẩu quặng, sống chết với nghề: nghề địa chất. Và đã trải đời mình trên cả chiều rộng lẫn chiều sâu của bản đồ Tổ quốc. Nghề và nghiệp đã đưa anh tới với Thơ. Tình yêu đất nước, yêu những người dân bình dị anh đã gặp và đã thân quen suốt "hành trình địa chất" đã đưa anh tới với Thơ.
Tôi còn nhớ khi học ở khoa Văn đại học Tổng hợp, những năm sơ tán ở Đại Từ - Thái Nguyên, tôi đã đọc được tập thơ "Sức mới" với lời giới thiệu nhiệt thành của Chế Lan Viên. Đó gần như là tập "Thơ trẻ" đầu tiên của miền Bắc. Chúng tôi hồi đó còn rất trẻ, nên dĩ nhiên thơ trẻ, thơ được làm bởi những người trẻ thu hút chúng tôi nhiều nhất. Tôi nhớ, trong tập "Sức mới" ấy có một bài thơ của Nguyễn Thanh Giang. Hồi đó, có thơ in trong một tuyển thơ như vậy là ghê lắm rồi, là bắt đầu nổi tiếng rồi. Chính Phạm Tiến Duật và nhiều nhà thơ thành danh sau này đều đã bước ra từ tập thơ "Sức mới" in giấy xấu ấy.
Bẵng đi quá nhiều năm, không thấy Nguyễn Thanh Giang công bố thơ nữa, cứ nghĩ là anh đã bỏ thơ sang làm chuyện khác rồi. Cho tới một ngày, tình cờ ở một nhà ga tỉnh lẻ, tôi lần đầu được gặp Nguyễn Thanh Giang qua giới thiệu của một người bạn đang chờ tàu. Lúc ấy Nguyễn Thanh Giang đã nổi tiếng lắm rồi, nhưng là ở một "khu vực" khác. Người ta nói, công an hay an ninh mật gì đó theo anh khắp nơi. Nhưng hôm ở nhà ga tỉnh lẻ, anh đi đâu ghé qua đấy, tôi hình như không thấy có bạn công an nào theo anh. Chỉ có nắng. Và gió. Và dòng người chen chúc nhau ở một nhà ga khi tàu sắp tới. Khi tôi nhắc về bài thơ ở tập "Sức mới", Nguyễn Thanh Giang thổ lộ là anh vẫn làm thơ, anh còn yêu thơ lắm. Rồi tàu đến, chúng tôi chia tay. Nguyễn Thanh Giang lên tàu, cũng không thấy ai theo dõi gì, hay là có mà tôi không biết. Tôi vốn thật thà, và cũng không quá coi trọng chuyện ai theo dõi ai.
Phải nói, gần như ba phần tư tập thơ Nguyễn Thanh Giang là "thơ mậu dịch quốc doanh", theo cách nói xếch mé của một vài "nhà" gọi là "phê bình" trên mạng internet bây giờ. Đó là thơ yêu nước, thơ kháng chiến, thơ chống giặc ngoại xâm. Nó song hành với những bát phở "không người lái", với từng đề-xi-mét vải thô được cấp phát, với từng chút "mỳ chính" (bột ngọt) phân phối tới mỗi người lính, mỗi cán bộ, mỗi người dân trong những năm tháng cực kỳ thiếu thốn ở miền Bắc Việt Nam:
"Anh muốn về thăm nơi nặng tình nặng nghĩa
Nơi mẹ già cho bát cháo hành dăm
Nơi các em dựng trường bằng tiền mót khoai xúc tép
Vào lớp ngồi bùn còn bết đầy chân"
(Nhớ về xóm cũ)
Phải thấy nhân dân từ góc nhìn như thế thì mới có những câu thơ như nhà điêu khắc tạc vào đá khi viết về một người đồng hương lớn của mình:
"Vẫn thấy ông thồ đá qua những đồi sim
Lầm lũi xám những chiều hoang biền biệt
Kẽo kẹt bên trời dáng ông lẫm liệt"
(Nhớ Hữu Loan)
Và khi nhớ về một nhà thơ nổi tiếng của miền ven biển Quảng Ngãi, nơi "nước bao vây cách biển nửa ngày sông", Nguyễn Thanh Giang vẫn định hướng được tầm vóc của "những mảnh hồn làng" hôm nay:
"Ông có về lại vườn xưa hái quả
Thăm con sông từng tắm mát đời ta
Chú còng gió giương càng chào biển cả
Những mảnh hồn làng phấp phới tận Hoàng Sa"
(Nhớ Tế Hanh)
Và trong một đêm ngủ ở làng cổ Đường Lâm quê hương Ngô Quyền, Nguyễn Thanh Giang vụt nghe và thấy:
"Chiều đọc tin ngư phủ mình bị giết
Ước biển Đông vút cọc nhọn Bạch Đằng
Đêm nghe vọng tiếng tù và hối thúc
Thấy Ngô Quyền lẫm liệt vung gươm"
(Đêm ngủ ở Đường Lâm)
Không thể gọi bằng một tên nào khác, đó là thơ yêu nước. Người ta cứ tưởng khi đã thanh bình rồi thì lòng yêu nước cũng "lặn" mất tiêu trong thơ. Không phải đâu! Và đất nước ta bây giờ cũng chưa thật sự thanh bình. Kẻ thù vẫn ngày đêm rình rập, đe dọa. Biển Đông vẫn cuộn sóng. Ngư dân ra khơi đánh cá trên những ngư trường truyền thống như Hoàng Sa, Trường Sa vẫn liên tục bị khủng bố. Người làm thơ yêu nước bây giờ vẫn canh cánh trong lòng bao nỗi niềm như thuở xưa Cụ Đồ Chiểu hằng khắc khoải: "Bao giờ trời đất an ngôi cũ/Mừng thấy non sông bặt gió Tây/". Gió Tây ấy, bây giờ là gió(bấc) Bắc.
Mà gió bấc là gió bấc, gió nồm là gió nồm, không có kiểu "chúng ta cùng gió bấc gió nồm" như ai đó nói.
Đọc thơ Nguyễn Thanh Giang, tôi cứ muốn dừng lâu ở những đoạn thơ hồn nhiên thời kháng chiến của anh:
"Bấy lâu măng chấm muối vừng
Bữa nay giềng mẻ thơm lừng suối khe
Đi mười cây số mua bia
Bi đông mở nút cũng nghe nổ giòn
Chúc nhau chân cứng đá mòn
Tay vừa chạm cốc, cây rừng đã say"
(Tết trong thung lũng)
Những câu thơ như thế nó khiến cuộc đời chúng ta vốn nhiều buồn phiền trở nên dễ sống hơn. Cũng như bài thơ tặng cháu đích tôn này:
"Mơ màng thấy nước biển dâng
Thuyền vào tận ngõ nhưng không còn mình
Tưởng đà qua mấy mươi năm
Tỉnh ra biết cháu đái dầm ướt lưng"
(Nước biển dâng)
Rất tự tại.
Tôi biết, người vợ tảo tần của Nguyễn Thanh Giang là con gái nhà thơ Thôi Hữu-một nhà thơ yêu nước với bài thơ nổi tiếng "Lên Cấm Sơn" mà từ hồi đi học chúng tôi từng ngưỡng mộ. Thơ là chuyện của đất nước, của nhân loại mà cũng là chuyện của nhà ta, của mỗi gia đình Việt. Dù thơ chẳng cho ta danh phận gì, nhưng thơ định phận cho ta, thơ là phần thưởng của ta, nói như một nhà thơ Nga-Xô viết:
"Và những huân chương, không cần
Không cần lăng xăng huênh hoang
Với nhà thơ chúng ta-phần thưởng
Chính là số phận mình"
Khi "phần thưởng" của mình chính là số phận mình, thì cần chi phải lắm lời, phải không ạ ?
Quảng Ngãi, qua Tết Đoan Ngọ 2013
* * * * * *
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thanh Giang
Dương Khôi
Cựu giảng viên Trường Cao đẳng
Sư phạm Hải Dương
Thiên nhiên trong thơ các nhà thơ lỗi lạc: Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... đều mang dấu ấn thời đại và lắng sâu tình yêu đất nước. ở Nguyễn Thanh Giang cũng vậy, thiên nhiên trong thơ ông mang dấu ấn của nửa cuối thế kỷ XX và có cái nhìn của nhà thơ, nhà khoa học Vật lý - Địa chất với nhiều khám phá và sáng tạo.
Có thể tìm thấy đôi ba bức tranh tuyệt bích trong thơ Nguyễn Thanh Giang.
Hãy xem cảnh "Được mùa":
Thóc đã mẩy tròn, sân nắng phơi
Vịt co chân ngủ, tép vờn chơi
Sáo ai rót mật vào không khí
Diều thả hoa lên phấp phới trời
No nê đến mức tép được vờn chơi ngay dưới chân vịt. Hỉ hả đến mức sáo không chỉ véo von mà "rót mật vào không khí". Không xô bồ huyên náo. Chỉ thấy chú vịt đứng co chân ngủ mà vui thấu tận trời xanh. Cái bức tranh quê này không chỉ mê hoặc nhiều thế hệ Việt Nam mà cả các dân tộc khác trên thế giới.
Và cảnh "Buổi sáng ở bản":
Màn sương trắng rung rinh
Núi nhô đầu xanh ngát
Rừng còn thở êm êm
Suối đã reo rào rạt
Thang sàn rung từng nhịp
Nọong xuống khe đã về
Xôi thơm mùi bên bếp
Mế khoác vội gùi tre
Bốn bề rung tiếng mõ
Cỏ rạp lối lên nương
Động cành, chim rời tổ
Đỉnh xa nắng vừa ươm
Không đợi mà như đợi, không lắng nghe mà biết nọong xuống suối đã về. Ngái ngủ nằm nghe sàn nhẹ rung như loáng thoáng tình. Êm ái quá.
Có phải núi đang nhô lên làm "màn sương trắng rung rinh". Không thấy người đi mà "cỏ rạp lối lên nương". Rồi chim cũng rời tổ bay đi. Nắng thì ươm tận đỉnh xa, chỉ còn bản vắng. Êm đềm như bức tranh thiền. Động mà sao tĩnh quá. Nhịp sống khẩn trương mà thật thanh bình.
Thơ Nguyễn Thanh Giang nhiều khi rất động:
Ngày chon von tám hướng gíó đùa
Đêm xoáy cả ánh trăng vào thớ đất
Hay:
Buồn lởm chởm lại xô lên triền đá
Ngổn ngang trời
Nắng lóa
Núi xanh tuôn
Nhiều khi lại rất tĩnh:
Đông về, chiều đã sương
Trăng chìm nơi đáy giếng
Hay:
Trán đá phơi trắng cả hoàng hôn
Song nhiều khi cái động ủ trong cái tĩnh, cái tĩnh nén cái động:
Biển còn xanh quá biển ơi
Mây thời bạc trắng một trời long đong.
Hay:
Tưởng lênh đênh giữa Sông Ngân
Không Trăng Sao, chỉ cánh buồm bơ vơ
Hỏi ông là nhà địa chất hay là thi sỹ?
Chất thi sỹ làm cho thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thanh Giang hư hư thực thực. Khi thực thì óng ánh với đàn chim bay vụt lên từ ruộng lúa:
Chim bay lên hạt vàng vương trong cánh
Khi hư thì ảo ảo mơ mơ:
Mà ầu ơ, tiếng ầu ơ man mác
Cứ lim dim heo hắt mấy canh đèn
Xa xăm lắm, những vì sao thao thức
Nghe trẻ học vần từ đất Văn Lang
Là nhà địa chất, ông có tâm hồn thi sỹ rất cường tráng. Lên Đà Lạt, gặp "Đồi thông Hai mộ" ông lại thấy "Thông cứ xanh vun vút đội trời chiều" và "Gió mãi cồn cào Thung lũng Tình yêu". Về biển quê hương Sầm Sơn lúc "Tưởng chỉ còn nỗi buồn thu tê tái", vậy mà còn thấy được hai khối đá làm tình trên nhau:
Hòn Trống
Vẫn đu đưa
Trên
Hòn Mái
Đu đưa cho đến bải hoải đời, mà vẫn còn nghe sóng giục. Sexy quá. Sexy ngay cả trong cái vườn nhiều trăng của Xuân Diệu mà "ái-ân-đêm cứ dậm trên vàng".
Càng nồng nàn biết bao nhiêu nơi cái bàn Mèo trên lưng chừng núi:
Sàng Thần cao hơn mặt biển trên ngàn mét
Nắng trưa như áp sát mặt trời
Hoa lau nở bung ra hết
Ve rang đổ lá tơi bời
Chú ngựa tải lương đêm qua đã chết
Da bọc xương như chiếc khăn vắt kiệt
Máng nước đầu nhà chỉ tý tách rơi
Tiếng hoẵng dội về khô khốc
Nhưng sao cứ phừng phừng hoa anh túc
Để đêm đêm vẫn nghe kẽo kẹt
Và sáng sáng chiếc váy tròn đung đưa
đung đưa
Phe phẩy vào nỗi khát!
Đi nhiều, sống nhiều, dầu dãi nhiều... thiên nhiên trong những áng thơ của nhà-khoa-học-thi-sỹ này vừa mênh mang huyền ảo, vừa ngồn ngộn hơi thở cuộc sống.
Trăng trong thơ Nguyễn Thanh Giang không nhiều nhưng độc đáo. Đêm kia, nhà địa chất thi sỹ ngủ ở đỉnh núi cao nào mà trăng có thể sà xuống đùa cợt móc cả vào dây lều mà lôi lên.
Tưởng chỉ còn kia sắc xanh thôi
Chợt ngoảnh lại từ vắng im vũ trụ
Đường mòn xuống bản dưới xa
Cánh chim mời về tổ ấm
dưới xa
Mảng mây trắng tuổi thơ hằng mong gửi
cánh diều
Dưới xa.....
Sao nở trong tầm với
Này ngôi đỏ, rực lò gang đang sôi
Này ngôi tím, biếc sắc thép tôi già
Này viên ngọc xanh lung linh bên vành nón
Này chiếc nhẫn vàng chưa ngón tay đeo....
Chụm đầu bên nhau cho quên cái lạnh
trên cao
như kim châm vào da thịt
Bồng bềnh trong mây
Rừng cây chập chờn như hư như ảo
Gió tung lên phần phật
*
...Chợt lưỡi liềm trăng móc căng dây lều
làm mọi người sửng sốt
Ông công tác trong ngành địa chất nhưng lĩnh vực chuyên sâu của ông nghiên cứu về cổ địa từ trường. Những số liệu ông thu thập, những bản đồ, biểu bảng của ông thể hiện trường từ của trái đất không chỉ hiện nay mà cả ngàn triệu năm trước cho nên Trái Đất, vũ trụ đối với ông rất gần gụi. Hãy xem ông tả cảnh núi lửa phun:
Sấm gầm từ lòng đất
Hắt lên
Va vào sét tự trên cao phóng xuống
Dòng sông lửa đổ dài lênh láng
Như đĩa đèn dầu
Rót từ Vũ trụ
Xuống mặt hành tinh
Tóc nàng Pê-lê
Dệt bằng sợi dung nham
Phất phơ bay trên lưng chừng cao nghìn mét
Tựa pháo hoa của đêm hội Thiên Hà
Đọc thơ Nguyễn Thanh Giang để được chiêm nghiệm thiên nhiên trong cái hào hùng mà trầm lắng, như con người ông cao xa mà mộc mạc chân tình.
Dương Khôi
* * * *
Sao nở trong tầm với
(Đọc tập thơ "Những Mẩu quặng dọc đường" của Nguyễn Thanh Giang)
Nhà thơ Ngô Văn Phú
Giải thưởng Nhà nước
về văn học-nghệ thuật năm 2012
Nguyễn Thanh Giang là một nhà khoa học. Suốt đời anh giành cho việc nghiên cứu, khảo sát, đặc biệt là ngành địa chất
Vậy mà anh lại yêu thơ và làm thơ. Tập thơ "Những mẩu quặng dọc đường" có đủ nghĩa đen và nghĩa bóng. Tập thơ có ba phần: Những mẫu quặng đời - Quê hương và đất nước - Hành trình địa chất. Thơ có bài ngắn, bài dài, viết về quá khứ, hiện tại, về những người xưa và những người hôm nay.
Hẳn anh đọc nhiều. Trong tập có những bài viết về Đoàn thị Điểm, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương, Nguyễn Bính, Văn Cao, Xuân Quỳnh vv...
Có bài vẽ được chân dung và thêm những tứ bay bướm:
NHớ Tế HANH
Ông có về lại vườn xưa hái quả
Thăm con sông từng tắm mát đời ta
Chú còng gió giương càng chào biển cả
Những mảnh hồn làng phấp phới tận
Hoàng Sa
NHớ NGUYễN BíNH
Em đi gánh nước sông Hàn
Sao còn tưới được xanh giàn mồng tơi
Bươm bướm trắng cũng bay rồi
Tơ hong bạc phếch nhớ người sang ngang
Nặng lòng với quê hương, tứ thơ đằm thắm, nhớ về những con người, những sự kiện trong những năm chiến tranh chống Mỹ:
Cho anh gửi lòng về xóm cũ
Nơi bóng dừa rủ mát những ngày thơ
Nơi bờ dâu ôm ấp những con đò
Dòng nước mặn thấm đôi bờ cát đỏ
... Phải em đấy không? Những em nào nữa?
Kháng chiến năm xưa mới thoát vỡ lòng
Lớp học giữa đình bàn kê cánh cửa
Mắt mở tròn nghe kể Triệu Trinh Nương
... Anh muốn về thăm nơi nặng tình
nặng nghĩa
Nơi mẹ già cho bát cháo hành dăm
Nơi các em dựng trường bằng tiền
mót khoai xúc tép
Vào lớp ngồi bùn còn bết đầy chân
(Nhớ về xóm cũ)
Thơ thắm thiết viết về đồng bằng với những ấn tượng khó phai. Chất đồng quê êm đềm mà thuần hậu:
Đất châu thổ phù sa ai bồi đắp
Thuở Âu Cơ bùn lấm đến bây giờ
Để trăng cứ trong như bát ngát
Để đồng vàng thơm hương vị hoang sơ
...Mà ầu ơ, tiếng ầu ơ man mác
Cứ lim dim heo hắt mấy canh đèn
Xa xăm lắm những vì sao thao thức
Nghe trẻ học vần từ đất Văn Lang.
(Đêm châu thổ)
Tuy nhiên, với những kẻ có tâm địa bành trướng, anh thật quyết liệt:
Tôi không muốn gọi đấy là cái lưỡi bò
Những chú bò nhuộm vàng chân đê
Những chú bò giúp tôi xung trận
Giả làm Đinh Tiên Hoàng
...Tôi không muốn gọi đấy là cái lưỡi bò
Đấy là cái lưỡi của con rắn độc
Ngo ngoe dọa người
Nhân dân tôi sẽ cắt lưỡi nó
Bẻ răng nó
Vắt lấy nọc
Tọng vào mồm đứa nào chiếm Hoàng Sa
(Về chuyên cái lưỡi bò)
Là nhà địa chất, anh đi nhiều. Thơ còn nhắc đến những miền đất đi qua, đầy ân tình; đầy cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, con người đôn hậu:
Hôm nay lại lên đường sang Tây-Bắc
Quặng đầy ba-lô níu nặng bước chân
Chim bay theo nhắn "khắc phục khó khăn!"
Mây trắng đón lưng đèo trùm bóng mát
...Nhớ Việt-Bắc những bản làng xanh biếc lá
Trắng hoa mơ và tươi đỏ hoa đào
Những mế hiền luôn thân thiết mời chào
Những ánh mắt ném theo tua còn rực rỡ
Nhớ ngây ngây màu nắng ươm bản Thổ
Sương trắng giăng êm ả mái tranh Mèo
Nhớ suối dẫn đường róc rách vui reo
Tiếng gió hát ru mỗi đêm rừng thao thức
(Những dặm đường)
Dọc hành trình địa chất anh đã nghĩ đến kết quả sau này sẽ khai thác, tạo ra nguồn của cải cho đất nước mạnh giầu:
... Sáu trăm mét
nắng lùa phanh áo ngực
Rừng già phơi đỉnh trọc cắt vào mây
Tám trăm mét
Toàn đá vôi trắng xám
Xin chớ buồn. Đây không gian thu
...Mỗi bước lên nghe nhịp tim càng rõ
Da căng như đầy ắp khí trời
Tưởng chỉ còn kia sắc xanh thôi
Chợt ngoảnh lại từ vắng im vũ trụ
... Sao nở trong tầm với
Này ngôi đỏ, rực lò gang đang sôi
Này ngôi tím, biếc sắc thép tôi già
Này viên ngọc xanh lung linh bên vành nón
Này chiếc nhẫn vàng chưa ngón tay đeo....
Chụm đầu bên nhau cho quên cái lạnh
trên cao như kim châm vào da thịt
Bồng bềnh trong mây
Rừng cây chập chờn như hư như ảo
Gió tung lên phần phật
... Chợt lưỡi liềm trăng móc căng dây lều
làm mọi người sửng sốt
(Ghi chép trên một hành trình địa chất)
Làm nhà địa chất leo núi, vượt ghềnh, lội suối, bỗng thấy mình là một nhà điền kinh thực thụ:
Lên cao, lên cao, lên cao
Đá dưới chân sụt lở ào ào
Bám vào gốc cây, với lên tầng mây
Luyện đôi chân và luyện đôi tay
Những bắp thịt săn tày thớ đá
Ngực căng phồng và tim giục giã
Ba-lô trĩu vai vẫn vượt Pia-Linh
Làm nhà địa chất, làm nhà điền kinh
Nghề chúng ta suốt đời vận động
Biển bạc rừng vàng, nắng mưa, gió lộng
Yêu cái nghề quen thử thách gian lao
Yêu cái nghề rất thể dục thể thao...
(Nhà điền kinh)
Tâm hồn địa chất đắm đuối đến nỗi nhìn gì cũng thấy ánh lên mầu kim khí:
Trước lán trồng thêm luống cải sen
Bướm rừng lác đác đến làm quen
Giật mình, một sớm hoa vàng chóe
Tưởng mạch quặng đồng mới nổi lên
(Luống cải sen)
Nguyễn Thanh Giang còn có phần thơ viết về gia đình, viết cho con cháu. Thơ cho cháu nội có những nét bất ngờ:
Mơ màng thấy nước biển dâng
Thuyền vào tận ngõ nhưng không còn mình
Tưởng đà qua mấy mươi năm
Tỉnh ra biết cháu đái dầm ướt lưng
(Nước biển dâng)
Chỉ một trò chơi bập bênh của lũ trẻ, anh vui theo và có những tứ lạ là chúng một mai sẽ làm chủ bầu trời cao xanh:
Bập bênh, bập bênh
Bên này nhẹ tênh
Bên kia nặng trịch
Chơi chẳng thấy thích
Bập mà không bênh
... Em chơi bập bênh
Cần có nhiều bạn
Chia đều hai bên
Ngồi cho thật vững
Bên chao, bên lượn
Như đàn chim xinh
... Nhìn trời trong vắt
Càng muốn lên cao
Tha hồ lượn nhào
Bay theo đàn "Mích"(*)
Nghe cười khúc khích
Biết bạn chờ em
Thôi nào em bập
Bạn ơi bênh lên
(Bập bênh)
Thơ viết tặng mình nhân ngày sinh nhật, thoáng chút buồn nhưng đâu đã tắt niềm vui:
Đã trọn bẩy mươi vòng cùng Trái Đất
Lẽo đẽo quay trong quỹ đạo Mặt Trời
Qua bao hạ oi nồng, bao đông giá ngắt
May vẫn còn một sắc thu xanh tươi
(Sinh nhật)
Vậy là với tập "Những mẩu quặng dọc đường", Nguyễn Thanh Giang đã thổi hồn cho quặng.
Hà Nội, 25-6-2013
Ngô Văn Phú
* * * *
Thơ truyền ý chí và nghị lực
Tiến sĩ Trần Nhơn
Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi
Đọc Nguyễn Thanh Giang, đây đó gặp những câu thơ buồn, rất buồn.
Buồn thăm thẳm:
Đông về, chiều đã sương
Trăng chìm nơi đáy giếng
Thăm thẳm lời ước nguyện
Xa xưa như nỗi buồn
Buồn mênh mang:
Biển còn xanh quá biển ơi
Mây thời bạc trắng một trời long đong
Buồn thao thiết:
Mây đã bạc đầu
chiều đã rêu phong
Thầm thĩ mãi tiếng rì rầm suối nhỏ
Thao thức mãi tiếng ào ào thác đổ
Trán đá phơi trắng cả hoàng hôn
Buồn vời vợi:
Tưởng như gió chán phong trần
Tưởng đưa chân bước mà không
gặp đường
Tưởng lênh đênh giữa Sông Ngân
Không Trăng Sao, chỉ cánh buồm bơ vơ
E như buồn còn theo người xuống mộ:
Nước mắt trào giữa đêm
Tưởng sắp tràn đáy mộ
Hơn một tuổi, cha mẹ bỏ nhau, cô và bà nội nuôi. Bẩy tuổi cha về đưa đi lang thang khắp các tỉnh thành cùng một gánh hát mà cha ông là chủ. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, theo dì ghẻ tản cư về ngồi bán nước vối và bún riêu ở đầu chợ Phủ Thọ Xuân Thanh Hóa ... Học hành rất lõm bõm vì nay đây mai đó.
Với cô thiếu nhi Đặng Thùy Trâm, không biết tình cảm anh huynh trưởng thuở xưa thế nào nhưng thơ ghi lại bây giờ thật xúc động:
Buổi ấy em đi
Mang theo tuổi trẻ anh vào nơi anh
không đựơc đến
Bởi em cần hậu phương
Sóng bước chân em trong nắng núi
mưa ngàn
Anh đi làm địa chất
Ước đúc tặng em "Bông hồng vàng Pautôpxki"
Nhưng em không về
Chỉ vọng lời em hát Sulikô
Trong tiếng đàn anh xưa
Xa vắng
Nhưng hẳn Nguyễn Thanh Giang không buồn vì tình ái. Giả sử anh huynh trưởng với cô thiếu nhi ngày ấy có gửi gắm trong nhau một thứ tình cảm sâu hơn các em thiếu nhi khác thì chút tình đó bây giờ vẫn "…tỏa mùi thơm thiêng liêng/ Âm ỉ cháy những tháng năm rạo rực" kia mà. Vả chăng ông đã có một người vợ vừa xinh đẹp, vừa thông minh, giỏi việc nước, đảm việc nhà, đã từng là Chánh Văn phòng Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Bà là con nhà cách mạng, nhà thơ nổi tiếng Thôi Hữu.
Ông cũng không buồn vì chuyện học hành nhôm nhoam bởi năm 1947, lúc 11 tuổi ông đã đi thi Primaire bằng tiếng Pháp và đã đỗ. Vì lý lịch gia đình không được đi nước ngoài nhưng năm 1980 ông cũng đã trở thành ngừoi đầu tiên bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ Địa Vật lý ở trong nước.
Không ai có thể thấy nỗi buồn bi lụy, ủ ê trong thơ Nguyễn Thanh Giang. Chỉ thấy trong nỗi buồn ấy chất chứa một khát vọng, một hoài bão lớn lao.
"Nhớ Tản Đà" ông viết:
Non cao dẫu tuổi đã già
Nước còn cuồn cuộn như là thương ai
"Nhớ Đặng Thùy Trâm" ông viết:
Nên cho dẫu mái đầu đã bạc
Anh vẫn mong cháy được thành em
"Nhớ Nguyễn Công Trứ" ông viết:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Sao hận trăm năm non nước ơi
Đọc hai câu này người ta có thể liên tưởng đến hai câu của Nguyễn Công Trứ "Làm trai đứng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông". Tuy nhiên Nguyễn Thanh Giang không hám chức tước, quyền lực. Anh chị em dưới quyền ông đều kể ngày ấy thủ trưởng thường giao hết quyền cho anh chị em để miệt mài đọc sách và hì hụi làm các thí nghiệm. Nhờ đó ông đã thiết lập nên Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Cổ địa từ đầu tiên ở Đông Nam á và là người đầu tiên phát hiện khả năng chưa Uranium của tầng than Nông Sơn.
Ông không hám vàng son lòe loẹt, không hám hào quang những mảnh vỡ thạch anh mà nhắn nhủ:
Hòn đá xám lẫn trong màu cỏ
Trong trời chiều bề bộn núi non xa
Mà em nhỉ, nếu biết yêu màu xám ấy
Bao giờ ta cũng có lời ca
Ông dặn con hãy như dây bầu cố bò lên dàn cao, nhưng cao tới đâu cũng đừng huyễn hoặc. Ông mong "Dàn bầu" của ông sẽ tỏa bóng mát cho đời mà quả thì cứ "ruột càng trắng phau".
Chưa đến trăng đâu
Vòm sao xa lắm
Chỉ vàng thêm nắng
Lộng thêm gió trời
...Thoáng đâu hiên ngoài
Xôn xao lá rợp
Đường xa ai mệt
Ghé ngồi thảnh thơi
Rồi say cánh bướm
Cái nậm xinh xinh
Cái bầu tròn óng
Xanh trong mắt nhìn
Yêu sao dây bầu
Lên tới giàn cao
Lá xòe bóng mát
Ruột càng trắng phau.
Cho nên ông rất cặm cụi bền bỉ. Bền bỉ cùng chú ngựa thồ
Theo ta đi suốt mùa đông khô trụi lá
Suốt mùa hè nắng đổ lửa xém lưng
Những đêm lều thưa mưa dột thấm chăn
Ta thương ngựa tấm phên chuồng
chẳng có
Nhưng cứ ráng hết sức
Lên đèo Chẹn cỏ gianh trùm lấp lối
Dốc Lũng-Pô chùn gối vẫn còn xa
Đường Xưa-Teo chân bấm tướp lần da
Đứt hơi thở vẫn cùng ta vượt tiếp
Bền bỉ như dòng suối miệt mài tích góp vị mặn cho biển:
Ngân nga em cứ giữ dòng
Trắng trong bởi tự thượng nguồn em sinh
Dẫu chưa ai gọi tên mình
Đá mòn, biển mặn, công em tháng ngày
Bền bỉ như chất biển mặn trong hồn.
Cơn gió nhẹ cũng lăn tăn xao xuyến
Bão thét gầm không lặng tiếng reo ca
Xa muôn dặm vẫn dạt dào xô đến
Mặn muôn đời chất biển của hồn ta
Bền bỉ để không chỉ có được sắc đỏ trong huyết quản mà lòng sẽ còn đầy ắp tiếng chim ca.
Rừng gần đầy hoa
Rừng xa đầy chim
Giọng thấp, giọng cao chen nhau
trong gió
Họa mi đất mừng những tay búa vừa
tìm thấy than
Sáo nâu mừng tìm thấy sắt
Hoàng Yến mừng tìm thấy vàng
Bạch Yến mừng tìm thấy thiếc
Vàng Anh mừng tìm thấy đồng
.... và liếu điếu, bồ nông
và chào mào, sáo đá....
*
Ai qua suốt rừng gần
Thấy hoa đỏ thấm vào hơi thở
Ai đi hết cánh rừng xa
Sẽ nghe lòng đầy ắp chim ca.
Mong sao bạn trẻ hãy tìm đọc Nguyễn Thanh Giang mà tiếp thu lấy cái ý chí ấy, cái nghị lực ấy để cùng trở thành một tài sản quý của quốc gia.
Mùa phượng vỹ Quý Tỵ
Tiến sỹ Trần Nhơn
* * * *
Thơ, hay Nhật ký tâm huyết cuộc đời anh
Phạm Ngọc Luật
Nguyên Phó Giám đốc NXB Văn hóa - Thông tin
Kể từ ngày tôi và anh Nguyễn Thanh Giang cùng có phận sự đứng trước phần mộ, trước bàn thờ người bố vợ - nhà báo, nhà thơ liệt sỹ Thôi Hữu - khấn nguyện những điều thiêng liêng và thành kính, tính đến nay cũng đã hơn 30 năm, thời gian bằng nửa đời người. Dài đấy chứ! Cùng vợ chồng anh bàn việc hiếu với các bậc sinh thành, việc hỷ của cháu con, rồi tết nhất, giỗ chạp vv..., gặp nhau nói bao thứ chuyện, riêng chuyện thơ phú chỉ nói chơi chơi, loáng thoáng bởi đó là khu vực rất riêng của mỗi một người. Phần thơ anh lộ sáng đến sớm nhất với tôi chỉ là một số bài thơ được chọn vào các tập tuyển của cái thời in thơ còn khó lắm, vinh hạnh lắm, cách nay cũng chừng 50 năm.
Thế rồi, như quả ở trên cây, tự già tự chín, gần đây anh gửi nhờ vợ chồng tôi (cũng có phần như giao nhiệm vụ kiểu người nhà) đọc giúp anh bản thảo tập thơ Những mẩu quặng dọc đường trên trăm trang, hơn trăm bài, tôi có hơi bất ngờ nhưng hiểu được lòng anh trong một kênh chữ nghĩa trữ tình khác với những gì anh vẫn viết.
Và tôi vẫn biết, thầm xen sự nể phục nơi anh có một sức nghĩ, sức viết, sức làm việc thật phi thường.
Tập thơ, có thể nói là ở đoạn cuối đời này cho thấy mạnh mẽ hơn khía cạnh một con người phong phú trong anh, trước sau vẫn đau đáu, trăn trở, nhiệt huyết một tấm lòng với nhân dân, với đất đai, Tổ quốc. Thơ như vậy là thơ yêu nước lắm. Là thể hiện tinh thần công dân cao cả.
Tôi biết thơ không là nghề là nghiệp gì cả với anh Giang. Nhưng thơ đồng hành cũng tất cả những gì anh đã sống, đã nếm trải.
Cái thủa ban đầu háo hức tươi trẻ đến với thơ, cũng như bất cứ ai, anh không thiếu, thậm chí là nhiều nhiều những bài thơ du dương mà thật thà, chân chất ngợi ca quê hương, đất nước mình. Có thể cả bài, nhiều bài cứ ngòn ngọt như vị xi-rô, mát mẻ trong lành như nước trái dừa tươi nhưng chính ở vùng miền thơ này lại không ít lần sánh lên những câu thơ như giọt mật ngọt sắc, hoặc đắng như khổ qua, cay như ớt. Nhưng không độc.
Tôi thích những bài thơ như Bập bênh, Cây bầu lên giàn, Nước biển dâng vv... anh viết tặng con cháu, những bài thơ ấy giọng điệu non tơ quá, thương cảm quá mà cũng dư đầy ngẫm nghĩ; thơ viết lại rất... nghề.
Tôi cũng muốn lưu nhớ cho mình những câu thơ sức vóc nhỏ thôi như tứ tuyệt (Yên Tử, Đèo Ngang vv...) mà dư vị cuộc đời nó cất lên không nhỏ.
Chợ bên sông đã lô nhô ngói đỏ
Cuốc thôi kêu, ai đó hết chạnh lòng
Không đá chen hoa, rừng đâu còn củi nữa
Lưng chú Tiều vẫn dáng lom khom.
Còn hơn là dư vị, cuộc đời một Hữu Loan, thi sĩ đồng hương của anh hiện lên lừng lững mà xót xa, hằn khắc sù sì trên vách đá cuộc đời, lẫm liệt trong hình hài một "cửu vạn" đậm mùi vị sim mua.
Vẫn thấy ông thồ đá qua những đồi sim
Lầm lụi xám những chiều hoang
biền biệt
Kẽo kẹt bên trời dáng ông lẫm liệt
Sắc tím đời ông bầm dập những con tim.
Anh Giang quả có dụng ý viết hàng chục bài về những nhà thơ mà cuộc đời họ hầu hết không xuôi chèo mát mái. Và thật sự họ là những người tài. Quý trọng nhân cách và ái tài, hai cái đó phải chăng cũng là vốn thực có trong con người cuộc đời anh.
Đó là những mẫu quặng đời như anh đã đặt "tên" cho họ.
Và họ đã góp phần tác thành "Những mẩu quặng dọc đường" anh có hôm nay.
Và tôi ưng ý (hay nói là "khoái" cho nó nhẹ bớt cường độ diễn đạt của mình) ở một xê – ri thơ của anh mà tên mỗi bài đặt đúng cho những vấn đề hóc búa với thơ như: Dân chủ, Tự do, Độc lập, Công bằng, Hạnh phúc, Bác ái. Ưng ý và khoái vì ở đó cảm xúc cùng trí tuệ đã có dịp thăng hoa.
Mấy câu về Hạnh phúc có thể mới là thăng hoa ở tầm thấp:
Bị thằng bán tơ vu oan
Vẫn ngậm bồ hòn làm ngọt
Nhấm nháp vị cay của ớt
Để ăn càng ngon thêm
Cởi nốt tấm áo sờn
Đắp cho người lưu lạc
Bài Tự do, thăng hoa như đã hơn một bước:
Khi lên cao
Vút tận mây mờ
Lúc xuống thấp
Vượt cả năm dòng kẻ
Người xướng âm
Vẫn chỉ
Đồ Rê Mi Fa Son
Đến bài Bác ái, thăng hoa ấy đã đưa thơ tung tẩy trong phẩm vị mới mẻ, không dễ làm, không dễ có.
Nhưng, có thế nào thì vẫn phải trở lại để nói rằng, đúng, anh Giang chưa bao giờ coi thơ là nghề và nghiệp.
Nhưng càng đúng hơn, thơ thật sự đã là nhật ký tâm huyết cuộc đời anh. Khi vừa là một cử nhân vật lý - địa chất, vào đầu những năm 60 thế kỷ trước, khoác ba lô đi mọi miềm núi rừng của Tổ quốc, anh đã viết những câu thơ có dấu ấn nghề và rất đẹp.
Trước lán trồng thêm luống cải sen
Bướm vàng lác đác đến làm quen
Giật mình, một sớm hoa vàng chóe
Tưởng mạch quặng đồng mới nổi lên.
thì gần nửa thế kỷ sau khi đã là Tiến sĩ Địa – Vật lý từ năm 1980 nội lực cho thơ, vẫn còn dư dật lắm. Tâm tư chiều là bằng chứng đích đáng, đủ nói cho điều đó:
Mây đã bạc đầu
Chiều đã rêu phong
Thầm thĩ mãi tiếng rì rầm suối nhỏ
Thao thức mãi tiếng ào ào thác đổ
Trán đá phơi trắng cả hoàng hôn
Gió quét, sương pha, mưa rỉ rả mòn
Trăng đã soãi một bình nguyên yên ả
Buồn lởm chởm lại xô lên triền đá
Ngổn ngang trời
nắng lóa
núi xanh tuôn.
Mừng sinh nhật thứ 77 của Anh
6 tháng 7 năm 2013
Tác giả tập thơ trực tiếp gửi cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét