Nhân kỷ niệm 22 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ (9.11.1989-9.11.2011), tôi post lại bài viết này đã được đăng trên Diễn đàn Talawas trước đây, khi tôi may mắn có mặt tại Berlin, Praha, Warszawa vào đúng dịp kỷ niệm 20 năm sự kiện lịch sử này.
Berlin – 20 năm bức tường Berlin sụp đổ!
Đến Berlin ngày 8.11.2009, vào buổi tối 9.11 tôi đã hoà cùng dòng người đông đảo tiến về phía Cổng Brandenburger Tor. để chứng kiến Lễ kỷ niệm 20 năm bức tường Berlin sụp đổ.
Trời mưa và lạnh nhưng dòng người vẫn đổ ra đường, háo hức chờ đón buổi lễ. Càng gần đến giờ khai mạc thì dòng người càng đông, có thể nhìn thấy rất nhiều người từ các nước khác đến bên cạnh những người dân Đức. Cuối cùng thì tôi chẳng thể nào chen nổi về phía Cổng Bradenburger Tor, đành phải đi qua phía con đường gần đó, nơi có "bức tường" tượng trưng bởi những tấm domino bằng xốp được trang trí thành các tác phẩm nghệ thuật dựng dọc theo nơi có bức tường chia cắt Đông Tây trước kia và theo dõi buổi lễ… qua những màn hình lớn ngoài trời.
Bên cạnh hàng loạt nguyên thủ của các quốc gia châu Âu, Mỹ, những con người quan trọng gắn liền với sự kiện này 20 năm trước, như Cựu Thủ tướng Hungary Miklos Nemeth, Cựu Tổng thống Nga Mikhail Gorbachev, Cựu thủ lĩnh phong trào Công đoàn Đoàn kết và Cựu Tổng thống Ba Lan Lech Walesa… đều có mặt trên khán đài. Mặc trời mưa, mọi người chăm chú lắng nghe các vị nguyên thủ quốc gia từ Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, Thủ tướng Anh Gordon Brown, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev, Thủ tướng Đức Merkel, Ngọai trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton… đọc những bài diễn văn đầy xúc động về ý nghĩa của việc bức tường Berlin sụp đổ, sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản tại châu Âu và cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới, giá trị của tự do quý giá giành được từ sự tranh đấu đầy dũng cảm của nhân dân Đức và nhân dân các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ tại Nga và Đông Âu… Những từ "tự do", "dân chủ", "hạnh phúc"… bằng đủ thứ tiếng khác nhau được thường xuyên nhắc đến.
Rồi cũng đến giây phút mọi người chờ đợi: ông Lech Walesa được vinh dự là người xô đổ tấm domino đầu tiên kéo theo hàng loạt những tấm domino khác… Chắc không phải là sự ngẫu nhiên khi một tấm domino có những dòng chữ tiếng Hoa tượng trưng cho đất nước Trung Quốc – và cũng là một trong vài "bức tường" của chủ nghĩa độc tài toàn trị còn lại trên thế giới – đã không chịu đổ!
Đứng bên cạnh mọi người, hoà cùng niềm vui và nỗi xúc động của người Đức và những người khách từ khắp nơiđến, trong đầu tôi chỉ trở đi trở lại một ý nghĩ: Bao giờ thì Việt Nam sẽ có được một ngày mà cả dân tộc được sống trong một xã hội tự do, dân chủ thật sự? Như lời Thủ tướng Đức Merkel: tự do là điều mà con người phải tranh đấu để giành lấy, bao giờ thì người Việt Nam ý thức được giá trị của tự do, dân chủ và cương quyết đứng lên thay đổi số phận của đất nước, của dân tộc mình như các dân tộc Nga và khối Đông Âu đã làm? Bao giờ thì mới thôi xảy ra tình trạng người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, sống tha phương ở khắp mọi nơi trên thế giới hòng tìm kiếm một cuộc sống đầy đủ hơn, thoải mái hơn cả về vật chất lẫn tinh thần cho mình và các thế hệ tương lai như 34 năm qua?
Những ngày kế tiếp tôi dạo quanh Berlin, đi dọc theo bức tường Berlin cũ chỉ còn để lại một phần làm chứng tích trên đó các họa sĩ đã biến nó thành những bức tranh với đủ các phong cách khác nhau; khu kỷ niệm những người dân Đông Đức đã vượt qua bức tường và bị bắn chết – tại đây người ta chỉ trưng bày tượng trưng một số bức ảnh của những người đã biết rõ danh tính trong số hàng trăm con người đã chết vì khát vọng tự do; khu phi quân sự cũ giữa hai vùng Đông và Tây Berlin… Đông Berlin bây giờ xây dựng nhiều, mới và đẹp còn hơn cả khu vực phía Tây.
Tôi cũng đến Viện Bảo tàng của người Do Thái. Người Đức không ngần ngại trưng bày cho các thế hệ sau và cho cả thế giới những gì họ đã hành xử với người Do Thái trong quá khứ, cả cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai dưới tham vọng điên cuồng của Hitler. Trong bảo tàng có cả một chỗ dành cho khách đến tham quan đứng tưởng niệm về những người đã chết – đó là một cánh cửa mở vào một căn phòng hẹp, tối om, lạnh lẽo, nhìn hun hút lên cao có một khoảng ánh sáng mờ mờ rọi xuống, có cảm giác như đang đứng dưới đáy giếng sâu, hay như trong ngục tối! Vâng, một dân tộc dám thẳng thắn nhìn lại quá khứ, không che giấu sự thật, dám thừa nhận những sai lầm, dân tộc ấy mới có thể tiến về phía trước một cách thanh thản và mạnh mẽ! Dân tộc Đức và nhiều dân tộc khác đã làm được như vậy nên ngày hôm nay khi đến Berlin, Praha, Warszawa… người ta có thể cảm nhận được họ đã vượt qua quá khứ như thế nào!
"Bức tường" là những tấm domino sẽ bị xô đổ khi buổi lễ diễn ra
Dấu vết còn lại của bức tường ngăn cách Đông-Tây Berlin trước kia
Bảo tàng Do Thái ở Berlin
Praha – Ký ức của dân tộc!
Nếu như Berlin rộng lớn với những khối nhà vuông vức, kiến trúc hiện đại, đơn giản, tạo một cảm giác nghiêm trang, ngay hàng thẳng lối như tính cách của người Đức thì Prahacổ kính với những toà lâu đài, biệt thự kiến trúc cầu kỳ và duyên dáng soi mình bên dòng sông, những cây cầu cổ, những con đường lát đá và những cỗ xe ngựa dành cho khách du lịch. Tôi thích Praha ngay như đã từng thích Paris khi lần đầu tiên đặt chân đến Paris mùa hè vừa rồi. Tất nhiên Paris rộng lớn hơn, nhiều di tích lịch sử, nhiều nơi để đi để xem hơn nhưng cũng xô bồ hơn. Praha không rộng lắm, các kiến trúc cổ nhất tập trung hết ở khu thành cô,̉ còn nếu muốn mua sắm thì đến khu trung tâm với những cửa hàng vào ban đêm lộng lẫy ánh đèn.
Praha có lịch sử cả ngàn năm và sở dĩ thành phố này còn giữ nguyên vẹn tất cả những kiến trúc, di tích từ thời cha ông để lại trong khi nhiều thành phố khác bị tàn phá khá nhiều trong Thế chiến thứ Hai là vì chính phủ Tiệp khi đó đã không chống cự gì mà để yên cho quân Đức vào Praha, có lẽ vì họ biết rằng có chống cự lại cũng thua nên thà như vậy mà giữ được thành phố vẹn nguyên chăng?
Khi tôi đến, Praha và nước Tiệp Khắc cũng sắp đến ngày kỷ niệm 20 năm kết thúc chế độ cộng sản – đó là ngày 17.11. Vào ngày này 20 năm trước tại Praha và một số thành phố lớn của Tiệp Khắc đã nổ ra hàng loạt cuộc biểu tình lớn đòi tự do dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ. Tại Praha cuộc biểu tình đã diễn ra tại quảng trường Václav với sự tham gia của cả trăm ngàn người. Nếu như tại Ba Lan, phong trào công nhân dưới sự lãnh đạo của Công đoàn Đoàn kết đóng vai trò quyết định dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản thì tại Tiệp Khắc, tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ đóng vai trò tiên phong trong các cuộc biểu tình.
Bây giờ tại quảng trường này tôi đi qua hàng loạt tấm panô lớn trưng bày hình ảnh của những cuộc biểu tình, hình ảnh của những kẻ thù của nhân dân – các nhân vật trong bộ máy lãnh đạo, công an, mật vụ của chế độ cộng sản thời đó. Trên nhiều tấm bảng có dòng chữ "Paměť národa" có nghĩa là "Ký ức của dân tộc!". Và cũng trên quảng trường, là tấm bia kỷ niệm hai sinh viên đã tự thiêu chết trong một cuộc biểu tình đòi tự do.
Praha còn có quảng trường Staromestske nằm gần Lâu đài Praha, nếu người Việt quen gọi quảng trường Václav là Quảng trường Con ngựa vì có bức tượng thánh Václav cưỡi ngựa thì người Việt cũng gọi quảng trường này là Quảng trường Con gà. Quảng trường Staromestske được bao bọc bởi những đền đài, nhà thờ, khách sạn, là những công trình từ thế kỷ 11 và 12 theo kiến trúc Roman. Trên quảng trường là tháp đồng hồ thiên văn độc đáo được chế tạo ròng rã trong suốt 80 năm, từ 1410 tới 1490. Trên nóc đồng hồ có một chú gà trống bằng vàng, cứ vào những giờ chẵn lại thò đầu ra ngoài cửa sổ để cất lên những tiếng gáy. Buổi tối tại đây khách du lịch chen chân bên người bản xứ, hoặc dạo quanh thành phố trên những cỗ xe ngựa với những người xà ích ăn mặc như thời xa xưa, hoặc thưởng thức các món ăn ngon trong các nhà hàng hay đơn giản ngồi ngay trên những chiếc ghế dài ngoài trời ăn vội ổ bánh mì kẹp xúc xích chiên nóng hổi.
Tôi cũng ghé qua Plzen, nằm cách Praha chừng nửa tiếng đi xe hơi. Đó là một thành phố nhỏ nhưng những ngồi nhà cũng có tuổi thọ cả năm bảy trăm năm. Nếu như bia Tiệp nổi tiếng trên thế giới thì bia sản xuất ở Plzen nổi tiếng nhất nước Tiệp. Tôi là người không sành về bia và cũng không uống được bao nhiêu nhưng loại bia có tên là Pilsner Urquell thì quả là ngon thật. Đến Plzen thì phải uống bia này và mua về làm kỷ niệm những chiếc ly uống bia bằng sứ có khắc tên bia Pilsner Urquell cùng những hoa văn hoặc tranh cổ của Tiệp. Người Tiệp có vẻ thích hài hước, trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch tôi nhìn thấy những cái ly uống bia có hình đôi vú dành cho đàn ông và hình sinh thực khí của đàn ông dành cho phụ nữ hoặc có khắc những câu rất là hóm hỉnh về đàn ông, đàn bà. Plzen cũng đang tổ chức kỷ niệm 20 năm ngày chủ nghĩa cộng sản kết thúc. Trong một khu đât rộng người ta triển lãm những tấm áp phích về những cuộc biểu tình dưới chế độ cộng sản, có cả phiên bản cuối cùng của tờ báo Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Tiệp khắc ra vào ngày 17.11.1989.
Quảng trường Václav
Nhà hàng bán bia Pilsner Urquell ở Plzen
Các nghệ sĩ biểu diễn trên một đường phố cổ của Prague
Warszawa – Lại một lần nữa hồi sinh
Dân tộc Ba Lan là một dân tộc có nhiều nét đặc biệt, trước hết là sự anh hùng. Tại Warsaw, vào năm 1920, đại binh của Hồng quân Liên Xô do chính nhà độc tài Stalin và các tướng lĩnh Xô-viết nổi tiếng chỉ huy, tưởng chừng đã dễ dàng nuốt chửng Warsazwa, để rồi phải đại bại dưới tay Thống chế Józep Pilsudski, tổng tư lệnh quân đội, đồng thời là người đứng đầu nước Ba Lan độc lập.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, cũng đất nước nhỏ bé này đã dám đương đầu với quân đội phát xít Đức hùng mạnh và là đất nước bị tàn phá nặng nề cũng như đã gánh chịu nhiều đau thương nhất, cùng một lúc bị Liên Xô và Đức Quốc xã bội ước tấn công, với mưu đồ xóa tên Ba Lan khỏi bản đồ thế giới.
Trong cuộc khởi nghĩa Warszawa 1944, chỉ nội trong vòng ít ngày, thành phố bị Đức thả bom rải thảm, phá hủy hơn 85%. Warszawa vốn là một thành phố cổ với nhiều kiến trúc văn hoá, lịch sử cổ kính có từ thế kỷ 13 và trở thành thủ đô của Ba Lan từ thế kỷ 17. Toàn bộ cư dân gốc Do Thái của thủ đô, chiếm 30% tổng dân số Warszawa, bị đưa vào các ghetto để đưa đi các trại tập trung, lò thiêu người.
Khủng khiếp hơn, gần đây người ta đã bạch hóa tài liệu thời Stalin cho thấy Stalin đã ký hiệp ước Ribbentrop-Lomotov với Hitler, bán rẻ Ba Lan như thế nào. Cũng chính Stalin đã ra lệnh giết hàng chục ngàn sĩ quan, cảnh sát, tinh hoa của lực lượng quốc phòng Ba Lan lúc bấy giờ trong khu rừng Katyn vào cuối năm 1944.
Điều mà những người nước ngoài trong đó có tôi khi đến Warszawa cảm thấy ấn tượng nhất có lẽ đó là khu Thành Cổ gồm các nhà thờ, những công trình kiến trúc di tích lịch sử, thành lũy từ thế kỷ 17 bị tàn phá hoàn toàn trong Đệ nhị Thế chiến, đã được phục chế lại hầu như nguyên vẹn vào những năm 50, 60, 70. Trước những công trình phục chế này người ta để bức hình hoặc tranh chụp công trình cổ có từ xưa và công trình được xây dựng lại, phục chế lại sau này – giống hệt nguyên bản, cho thấy tài năng của người Ba Lan trong lĩnh vực phục chế công trình cổ thật đáng kinh ngạc! Và cũng ngạc nhiên không kém là khu Thành Cổ này đã được phục chế lại dưới chế độ cộng sản, tất nhiên với sự huy động tiền bạc đóng góp từ người dân Ba Lan trong và ngoài nước. Chế độ cộng sản ở bất cứ quốc gia nào từ Âu sang Á đều gây nhiều tội ác với nhân dân trong nước và với nhân loại nói chung, nhưng ở một số nước châu Âu cụ thể ở đây là Ba Lan, những người cầm quyền của chế độ cộng sản dù sao cũng có tầm hiểu biết văn hóa, biết quý trọng những di sản của cha ông.
Trong khi đó một công trình đồ sộ khác ở Warszawa xây dựng trong thời cộng sản, là món quà của Stalin dành tặng cho nhân dân Warszawa nói riêng và Ba Lan nói chung là Cung Văn hóa và Khoa học mang tên Stalin, bây giờ đổi tên thành Cung Văn hóa và Khoa học với 42 tầng (230,68 mét) thì lại đang gây ra nhiều tranh cãi trong người dân Ba Lan rằng có nên để hay phá đi. Công trình này được xây dựng trong 3 năm từ năm 1953-1955 với toàn bộ nhân công, vật liệu từ Nga chở sang. Trong những ý kiến bảo nên phá đi có lẽ cũng không hẳn vì người dân Ba Lan không thích nhớ lại Stalin, nhân vật đã có nhiều tội ác đối với dân tộc và đất nước Ba Lan, nhưng còn vì kiến trúc của công trình đồ sộ này giữa thủ đô Warszawa rất khó hòa hợp với các quần thể kiến trúc khác xung quanh.
Không chỉ quý trọng di sản của cha ông, nhân dân Ba Lan cũng rất quý trọng giới văn nghệ sĩ, nhất là những tài năng lớn. Như Fryderyk Chopin – có thể thấy cho đến tận bây giờ người dân Ba Lan vẫn rất tự hào về người nhạc sĩ thiên tài Chopin của họ – trái tim của ông thì được cất giữ trong Nhà thờ Thánh giá ở thủ đô Warszawa, còn trong Công viên Hoàng gia Lazienki, công viên rộng lớn nhất, đẹp và nổi tiếng nhất – đã có hơn 300 năm tuổi – của thủ đô Warszawa, có bức tượng Chopin lớn bằng đồng. Vào mùa hè người ta phun nước đầy hồ nhỏ dưới chân bức tượng, hoa hồng nở đỏ rực trong những luống đất và người dân Ba Lan đến khu vực này, ngổi trên những chiếc ghế xếp chung quanh bức tượng, nghe những người nghệ sĩ đánh lại những bản nhạc của Chopin trong không gian êm ả tuyệt đẹp của những buổi chiều mùa hạ. Còn đạo diễn Roman Polanski, vào những ngày này khi ông đang phải ngồi tù tại Thụy Sĩ và sắp sửa bị dẫn độ về Mỹ vì tội cưỡng ép quan hệ tình dục với người chưa đủ tuồi vị thành niên từ nhiều năm trước, thì tại Warszaw angười ta đang chiếu một bộ phim tài liệu về Roman Polanski mà quan điểm chủ yếu là bênh vực vị đạo diễn tài năng này.
Ở giữa Warszawa còn có cả một khu rộng lớn trước đây của người Do Thái, khi quân Đức đến họ đã bao quanh khu vực này để dễ kiểm soát người Do Thái và sau đó đưa họ đi đến các nhà tù để giam hoặc giết hại. Vẫn còn lại một phần khu nhà tù rộng lớn giam giữ người Do Thái trước kia bây giờ là một di tích của lịch sử.
20 năm sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, cũng như Nga và các nước Đông Âu khác, đất nước Ba Lan đang khắc phục những hậu quả nặng nề của chủ nghĩa cộng sản để lại và đang phát triển đi lên bền vững từng ngày, nhưng cũng bộn bề bao nhiêu điều phải giải quyết, lại thêm cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện tại đang gây ảnh hưởng đến hầu hết các nước trên thế giới. Tình cờ chúng tôi gặp một đoàn có đến hàng ngàn công nhân tổ chức biều tình cũng là vì lý do kinh tế, thất nghiệp… Nhưng ngay cả việc người dân được quyền biểu tình cũng nói lên đất nước đó có tự do dân chủ.
Và người dân Ba Lan vẫn không quên chăm chút cho cái hồn, sự lãng mạn của thành phố. Đến Warszawa, ngồi trong một quán ăn vừa nghe những người nghệ sĩ lang thang thổi kèn và đánh phong cầm hoặc đi dạo qua khu Thành Cổ, đến Quảng trường Rynek, ngồi nhấm nháp ly cà phê, thả hồn ngắm dòng khách du lịch tấp nập bên những tiệm ăn, những phòng tranh nghệ sĩ, hoặc đang tíu tít chụp hình ngay giữa quảng trường bên bức tượng Nàng Tiên cá, biểu tượng của Warszawa, chúng ta có thể cảm nhận được cái hồn của thủ đô một đất nước nghệ sĩ đã trải qua bao cơn binh biến và nay lại một lần nữa đang hồi sinh!
Một ngôi nhà thờ cổ được phục chế (trong bức tranh là hình ảnh ngôi nhà thờ có từ xưa)
Khu tưởng niệm Do Thái trước kia là một trại giam người Do Thái
Vài nét về cộng đồng người Việt tại Berlin, Praha, Warszawa
Tại Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan cũng như ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ, người Việt Nam đến làm ăn, sinh sống khá nhiều, là một cộng đồng người nước ngoài lớn không thứ nhì thì cũng thứ ba, thứ tư tại mỗi nước, và có mặt tại các nơi này từ những năm 50, 60. Điều này có nguyên nhân do người Việt Nam đã được đưa đi du học, học nghề hoặc đi xuất khẩu lao động ngay từ thời đó, sau này khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Đông Âu, nhiều người Việt tìm cách ở lại, sang đến những năm 80, 90 và sau này thì lại có thêm những đợt người mới qua bằng nhiều con đường khác nhau như đi đoàn tụ, kinh doanh, xuất khẩu lao động… Người Việt nhìn chung là một cộng đồng chăm chỉ, chịu khó, nếu không đi theo diện xuất khẩu lao động, vào làm việc tại các nhà máy thì ra chợ kinh doanh buôn bán lẻ, mở nhà hàng, làm dịch vụ các loại…
Ở Berlin, Praha hay Warszawa đều có những khu chợ của người Việt lên đến hàng ngàn gian hàng đủ chủng loại, những quán ăn với đủ món ăn Việt từ phở, bún, miến, tiết canh ngan…, những cửa hàng dịch vụ đủ loại phục vụ người Việt. Có thể thấy tại sao rất nhiều người Việt không cần biết tiếng Đức, tiếng Tiệp, tiếng Ba Lan… vẫn sống khỏe giữa cộng đồng và vẫn có cảm giác như đang ở Việt Nam là vì muốn ăn thức gì cũng có, hàng ngày vẫn trao đổi tiếng Việt là chính.
Nhưng đó cũng là cái dở của người Việt nhìn chung tại những nước này và có lẽ tại nhiều nơi khác nữa, đó là khả năng hội nhập vào đời sống văn hóa xã hội của nước người kém, chỉ sống co cụm với nhau và chỉ quan tâm đến việc kiếm sống, ít chịu khó tìm tòi học hỏi thêm cái gì khác. Từ người lao động nghèo đi bán hàng quà dạo, người kéo xe ở chợ cho đến những người kiếm khá hơn nhờ có quầy hàng ngoài chợ và những người giàu có mở nhà hàng, kinh doanh địa ốc hoặc chủ cho thuê các gian hàng… hầu hết chỉ quan tâm đến việc mưu sinh, ngày làm việc tối về xem VTV4, đọc báo An ninh Thế giới của Việt Nam nên rất nhiều người dù đã sống nhiều năm ở nước người mà cũng chẳng hiểu biết gì về nước người ta, tư tưởng, quan điểm về chính trị xã hội cũng chẳng khác gì người đang sống trong môi trường bị bưng bít thông tin trong nước. Được cái người Việt rất chăm làm và hầu hết dành dụm để lo đầu tư cho tương lai của con cái với hy vọng đời chúng sẽ khá hơn đời bố mẹ. Thế hệ thứ hai thứ ba này được hấp thụ nền giáo dục và lối sống của nước người ngay từ bé, lại được sự khuyến khích học hành của bố mẹ, có lẽ sẽ hội nhập tốt hơn nhiều và có được sự thành công nào đó về mặt vị trí xã hội trên nước người.
Trong những ngày ngắn ngủi ở Berlin, Praha, Warszawa, tôi đã gặp gỡ và hỏi chuyện khá nhiều người, từ một chị bán xôi, những người kéo xe ở chợ, vợ chồng một người nông dân trồng rau, một nhóm công nhân, chủ một tiệm ăn… cho đến những người tương đối thành đạt như giám đốc một công ty phần mềm máy tính, chủ một khách sạn sắp mở…Dù hoàn cảnh khác nhau, con đường ra đi khác nhau, nhưng họ đều phải lao vào cuộc mưu sinh đầy vất vả trên xứ người, chấp nhận hy sinh đời mình vì tương lai con cái và đều có những nỗi niềm ưu tư khi nghĩ đến quê nhà không biết bao giờ mới được như nước người ta để họ có thể an tâm trở về làm ăn sinh sống tại quê hương, không phải trôi dạt khắp nơi để mưu sinh như thế này.
Cũng như họ, tôi cứ ngậm ngùi với ý nghĩ chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, người Việt Nam rời nước ra đi với đủ mọi lý do lại nhiều như vậy suốt 34 năm qua. Dù biết rằng đời sống ở nước người có tốt hơn thoải mái hơn về nhiều mặt, nhưng giá mà có một ngày đất nước thực sự thay đổi để mọi người lại trở về cùng nhau xây dựng lại quê hương… Nhưng càng đi xa, càng hiểu về tính cách người Việt thì niềm hy vọng vào sự thay đổi ấy trớ trêu thay lại dường như mong manh hơn.
Tôi đã từng viết trong blog cũ của mình trước đây rằng nếu mỗi con người có một số phận khác nhau và tính cách của mỗi người sẽ góp phẩn làm nên số phận của người đó thì mỗi dân tộc cũng vậy. Tính cách của một dân tộc sẽ góp phần tạo nên số phận của dân tộc đó. Dân tộc tôi, dù sống ở trong hay ở ngoài nước đểu có những điểm giống nhau làm nên bi kịch của đất nước, đó là hay nghi kỵ, thiếu đoàn kết cộng với nỗi sợ hãi chế độ đã ăn sâu vào tiềm thức, ít quan tâm dến chính trị, chủ yếu vẫn tập trung vào cuộc sống của bản thân và gia đình. Với một dân tộc như dân tộc tôi, thì niềm hy vọng vào một sự thay đổi cho số phận của đất nước quả thật là rất khó!
Khu chợ Đồng Xuân của người Việt ở Berlin
Bên trong khu thương mại ASG ở Warsaw này là hàng trăm gian hàng của người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét