Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

Vì sao Công Hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng không có giá trị ?

Nguồn zung (Prof. Nguyễn Tiến Dũng)
 

(Có chỉnh sửa lại so với bản viết buổi sáng)

Công hàm Phạm Văn Đồng vào 09/1958 gửi cho Chu Ân Lai có ghi đại ý Chính Phủ VN tán thành với bản tuyên bố của TQ về hải phận (trong đó có ghi HS & TS là của TQ, trừ khi các văn bản mà tôi tìm thấy trong các tài liệu đã bị xuyên tạc). Việt Nam, trong vấn đề tranh chấp HS&TS, phải tìm cách vô hiệu hóa, phủ nhận Công Hàm của PVĐ, trên tòa án quốc Tế, cũng như đối với dư luận của quốc tế và các nước trực tiếp liên quan. Câu hỏi là làm sao phủ nhận nó? Dưới đây là các giải pháp đã được chỉ ra, tôi muốn thử phân tích sự hay dở của từng giải pháp.

1) Trung Quốc lừa ta. TQ hứa là sẽ chỉ chiếm hộ HS, rồi sẽ trả lại khi thống nhất VN.

Câu giải thích trên của một số quan chức VN cho nhân dân VN không có ý nghĩa gì với dư luận thế giới hay TQ và cũng không có giá trị pháp lý. Nếu TQ đã hứa là sẽ chỉ "giữ hộ" HS thì chứng cớ đâu ? Nếu chỉ có mấy lời nói miệng của ai đó, mà không ai có thể kiểm chứng là có thật hay không, thì có giá trị gì. Hơn nữa, việc "hứa" đó là không logic, nếu ta xét lịch sử tranh chấp đã có từ ít nhất là cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi nhà Thanh đã tranh chấp với Pháp ở HS&TS, rồi đến quân Tưởng Giới Thạch cũng ra chiếm một số đảo ở HS&TS, rồi đến CHNDTH cũng tuyên bố HS&TS là của mình, tức là trong suốt quá trình đó (từ trước khi có VNDCCH cho đến sau khi có VNDCCH) phía TQ (dù là chế độ nào) cũng nhận HS&TS là của mình và có đem quân ra chiếm phần, nên không có cớ gì Mao lại "hứa trả" HS cho VN. Nếu tin vào "lời hứa" đó thì có lẽ hơi "ngây thơ". Bởi vậy, cách giải thích thứ nhất này có vẻ không ổn.

2) Công hàm của PVĐ chỉ là để công nhận chủ quyền 12 hải lý của TQ, chứ không hề công nhận HS&TS là của TQ vì không hề nhắc tới HS&TS.

Luận điểm này có vẻ yếu. Tuyên bố của TQ có ghi rõ HS&TS trong đó. Công hàm của PVĐ có ghi rõ là tán thành với tuyên bố của TQ, và không hề phản đối bất cứ điểm nào trong tuyên bố của TQ, thì theo logic thông thường có nghĩa là tán thành với mọi điểm của tuyên bố của TQ, trong đó có cả điểm "HS&TS là các đảo của TQ".

3) Lúc đó chỉ có TQ là nguồn viện trợ chính, nên  VN "đành chấp nhận" tuyên bố của TQ.

Câu trên chưa phải là giải pháp, mới chỉ là nhìn nhận vấn đề một cách trung thực: Bắc VN thừa biết TQ chẳng có ý định "giữ hộ" gì hết, nhưng lúc đó ở thế bí, cần viện trợ để đánh Nam VN (và sợ Mỹ sử dụng HS làm căn cứ quân sự ?) nên làm vậy.

Theo tôi hiểu, bản thân ông Phạm Văn Đồng có giải thích đại ý như vậy về sau, và ông Nguyễn Mạnh Cầm  cũng đã phát biểu đại ý như vậy vào năm 1992 (?).

4)  Lúc đó HS&TS là do Nam VN giữ theo hiệp định Geneve, và Bắc VN không có chủ quyền với các đảo đó, sự tranh chấp là giữa TQ và Nam VN chứ Bắc VN chỉ là bên thứ ba không liên quan, nên tuyên bố của PVĐ không có giá trị.

Cách lý luận trên làm nảy sinh vấn đề sau:

Bắc VN không công nhận Nam VN là chính phủ hợp pháp, mà chỉ coi là "bù nhìn", cần bị đánh dẹp, và như thế có nghĩa là Bắc VN (trong con mắt của một số nước thân với Bắc VN, trong đó có TQ) là đại diện hợp pháp duy nhất cho VN thời đó. Sự tranh chấp là tranh chấp với toàn bộ VN, mà chính quyền HN làm đại diện. Nếu bây giờ nói "không lúc đó tôi không liên quan", thì tức là Bắc VN phải công nhận sự hợp pháp của chính quyền Nam VN là một đại diện thực sự cho VN chứ không phải là "chính quyền ngụy" nữa, nhưng như thế thì lại mất ý nghĩa "giải phóng miền Nam" mà là thành "xâm lược Nam VN". Nếu tiếp tục cách giải thích "lúc đó tôi không liên quan", thì đến năm 1975 HN chỉ được "thừa kế" phần TS do SGN lúc đó để lại, chứ không có được HS để mà thừa kế nữa, tức là trong tranh chấp HS giữa TQ và Nam VN thì TQ đã xơi tái HS rồi, còn đâu mà thừa kế. Trước 75 không phải của mình vì "chuyện không liên quan", đến 75 cũng không phải của mình vì có được ai giao cho đâu, thì bây giờ khó nhận thành của mình.

Nếu bỏ qua chuyện pháp lý, và chỉ tính chuyện thực tế, thì đúng là cho đến 1975 phía HN có muốn cũng không kiểm soát được HS&TS, nên đúng là "không liên quan" thật (về mặt khả năng tranh chấp hay kiểm soát). Và do đó, cũng trên thực tế, chỉ có TS là VN thống nhất còn giữ được, còn HS đã bị mất vào tay TQ trong giai đoạn chiến tranh Nam-Bắc.

5) Cả hai chính phủ Bắc VN và Nam VN đều chỉ là chính phủ lâm thời để chở tổng tuyển cử, theo hiệp định Geneve. Các chính phủ lâm thời thì không có quyền quyết định về chủ quyền, nên tuyên bố của PVĐ không có giá trị.

Có điều, hiệp định Geneve đã bị phá bỏ ít năm sau đó, không còn có lịch trình tổng tuyển cử nữa, và cả hai chính phủ Bắc VN và Nam VN đều trở thành "permanent" chứ không còn lâm thời nữa, có đầy đủ các ban bộ, quốc hội, v.v. Bởi vậy lý do này kém sức thuyết phục.

6) Mọi tuyên bố của chính phủ về chủ quyền cần được quốc hội thông qua thì mới có hiệu lực. Vì tuyên bố của Phạm Văn Đồng chưa bao giờ được quốc hội thông qua, nên không có hiệu lực.

Theo tôi, đây có lẽ chính là lý lẽ "hợp lý" nhất. Nói cách khác, tuy "Đảng" có nói là HS&TS là của TQ đi chăng nữa, mà "Dân" nói HS&TS là của VN, thì về mặt pháp lý, đối với nước VN, nó vẫn là của VN. Chúng ta cần chú ý điểm này: Quốc Hội (đại diện cho Dân) quan trọng hơn là các quan chức chính phủ (do Đảng chỉ định), ít ra là trong các vấn đề vô cùng quan trọng như là vấn đề chủ quyền lãnh thổ.

Tuyên bố của TQ vào 09/1958 là tuyên bố được Quốc Hội TQ thông qua. Nhưng tuyên bố của PVĐ chưa hề được Quốc Hội VN thông qua. Quốc Hội VN chưa bao giờ nói rằng HS & TS là của TQ.

Tôi có thắc mắc là tại sao phía VN cho đến nay không dùng luận điểm này ?

Luận điểm thứ 6 không phải do tôi nghĩ ra, mà ít ra đã được ông Cù Huy Hà Vũ viết ra trong một thư gửi ông Lê Đức Anh từ 12/2007 (và có thể đã được những người khác chỉ ra từ trước đó ?). Rất tiếc, một người chính trực và khá sắc sảo như ông Cù Huy Hà Vũ thì lại ngồi tù.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét