Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Nguyễn Ngọc Giao : Từ Hiệp định Paris đến "Bên Thắng Cuộc"

Nguồn diendan

Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX


Từ Hiệp định Paris đến "Bên Thắng Cuộc"


Nguyễn Ngọc Giao



Hiệp định Paris "về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam" đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).

Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy "palace siêu hạng" của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày "mất nước", hay "quốc hận"), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại "cải tạo", chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington - Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị... , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định -- Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa -- đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.

Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về  lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí "lề phải" vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với "đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn". Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng "khai thác độc quyền" (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của "sử đảng", nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang "sử" ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là "không thể tin được" những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.

Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập "Giải Phóng" và "Quyền Bính" của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva... với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc "động đất lịch sử" ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là "ngợp" trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là "thất vọng" hay "mong mỏi" những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các "dư luận viên" mà nhà nước đang huy động để "đánh Huy Đức" và của các chuyên gia "chống cộng tới chiều" đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận)

Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?

Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định...) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và "khoanh" lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.

Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :


Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?


Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ "chiến tranh giải phóng" mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói "chiến tranh giải phóng dân tộc", đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : "Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 -- ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc". Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề "hốt cắt đục") đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.

Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.

Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định "rút pháo ra", ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và... Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).

Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở "bên thua cuộc" nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù "Việt cộng cướp nước", oán hận "Mỹ bỏ rơi".


Nội chiến ?


Đối với quan điểm tuyên truyền "chính thống" của Đảng Cộng sản Việt Nam, "nội chiến" là một điều cấm kị. "Hai mươi năm nội chiến từng ngày", câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ - Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự "dũng cảm" (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, "dũng cảm" không phải là thuộc tính độc quyền của "ông chủ" (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi. 

Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ "quốc-cộng". Tôi để hai chữ "quốc-cộng" trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là "quốc gia", những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho "chủ nghĩa cộng sản ngoại lai", quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).

Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). "Nam Kỳ tự trị" năm 1946, "Quốc gia Việt Nam" năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.

Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức...

Chính đường lối "tả khuynh" theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã "bưng mâm bầy cỗ" cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng "chống Pháp" vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một "quốc gia" với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về "phe kháng chiến" nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy ! 

Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của "đệ nhất cộng hòa" đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do...  Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị... có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.

Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động "cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để" (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào "can chú Thanh", cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất "triệt để mao-ít". Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc "cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện" ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về "cải tạo công thương nghiệp" do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.


Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?


Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành "tiền đồn thế giới tự do" đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là "tay sai" ("agent" của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ "Nam quốc sơn hà..." của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam" (ông ta cũng đủ dí dỏm để,  đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : "Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris").

Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là "chiến tranh ủy nhiệm", "chiến tranh ý thức hệ".

Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.

Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được "ủy nhiệm" để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.

Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương "bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không "ăn giơ" với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 "chổi ngắn không thể quét xa" không chỉ là một lời nói suông).


Yếu tố quyết định


Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?

Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).

Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện pháp tác chiến, các cuộc tổng tiến công ? 

Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.

Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản "Định ước quốc tế", tức là đơn thuần "chứng giám" sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái "thế chiến quốc" ở Genève năm 1954 đã qua rồi.


Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc



Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :

Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền "cộng sản" thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một "khoảng thời gian vừa phải" (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian "decent".

Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách "cải tạo" thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự. 

Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.

Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.

Berlin, 8.2.2013

Nguyễn Ngọc Giao

***************
Mời đọc thêm bài của Nhà Văn Nguyên Ngọc trên anhbasam

Anh S., bạn tôi

Posted by basamvietnam on 13/02/2013

Đôi lời: Nhà văn Nguyên Ngọc vừa gửi tới bài viết từ 7 năm trước, nhưng vẫn còn tính thời sự, nhân đọc bài 1606. Từ Hiệp định Paris đến "Bên Thắng Cuộc" (Diễn đàn/ BS) của GS Nguyễn Ngọc Giao. Ông đánh giá bài viết "rất đàng hoàng, rõ ràng, chặt chẽ, đúng mức và cần thiết để hiểu đúng bản chất của sự thật lịch sử, từ đó mà có suy nghĩ và hành động đúng". Tuy nhiên, ông đã rất bức xúc khi đọc một số phản hồi chỉ trích bài viết đó và cá nhân GS Nguyễn Ngọc Giao.

Không phải chỉ nhà văn Nguyên Ngọc có tâm trạng này, mà một số trí thức khác cũng có cảm giác tương tự. Có điều, dường như họ chưa hiểu lắm về … Internet, nơi mà có những đề tài chỉ lôi cuốn nhiều những người đầy thù hận không sao quên được, cùng lẫn lộn những "dư luận viên" của tuyên giáo trà trộn trong đó tham gia bình luận. Trong số độc giả trên dưới 100.000 lượt truy cập vào trang Ba Sàm mỗi ngày, họ chỉ là con số rất nhỏ nhoi, tiếng nói yếu ớt; những phản hồi thiếu lịch sự cũng có tác dụng tốt cho độc giả hiểu thực trạng xã hội và tập cọ sát với mọi thái độ khác nhau từ công luận.

Nhưng ngược lại, những người bị chỉ trích, dù là lối chỉ trích thiếu văn hóa đi nữa, cũng cần ít nhiều tự xem lại mình, rằng mình đã thực sự hoặc có được bao nhiêu sự "lột xác", "sám hối", đã "tỉnh" hẳn chưa, nếu như từng một thời mê muội, tiếp tay cho những quyết định sai lầm đem lại hậu quả to lớn cho cả Dân tộc. Họ cần học những tấm gương, trong đó ít nhất, theo thiển ý của chúng tôi, có Nhà văn Dương Thu Hương.

Anh S., bạn tôi

Nguyên Ngọc

Tôi quen anh S. rất tình cờ, nhưng rồi về sau, khi đã thân, chúng tôi thường cười nói với nhau: Chẳng ngẫu nhiên hoàn toàn đâu, có duyên trời cả đấy. "Trời" đây là cuộc thế mấy mươi năm nay của đất nước ta, với bao nhiêu uẩn khúc trầm luân, đưa con người đi theo những con đường chẳng ai ngờ trước, tạo nên trong số phận từng người nhiều bi kịch, mà lắm khi may mắn cũng nhiều.

Tôi từ Boston bay đi Washington DC và có việc cần ở lại DC năm bảy ngày. Người quen ở Boston nhiều, nhưng ở DC tôi lại chưa hề biết ai. Anh bạn tôi ở Boston bảo: "Tôi gửi anh cho anh S. ở DC nhé, nhà anh ấy rộng, rất yên tĩnh, nhưng quan trọng hơn, anh ấy là người rất hay. Khéo các anh lại trở thành thân thiết cũng nên". Tôi chú ý chữ "hay" anh bạn tôi dùng. Tôi có nghe tên anh S. nhưng chưa gặp lần nào, có đọc đôi bài của anh, chủ yếu về phê bình văn học, cảm giác chung là một cây bút sâu sắc, cả sắc sảo nữa, nhưng không ồn ào, gây cho người đọc một cảm giác tin cậy và nể trọng. Và đọc văn tôi thường thích thử đoán người, tôi hình dung một con người trầm tĩnh, dấu tâm huyết nồng cháy dưới một bề ngoài có thể hơi chút gì đó cứ tưởng chừng dửng dưng…

Anh đón tôi ở sân bay Baltimore, hôm ấy sân bay không hiểu sao có khá nhiều người Việt đón người thân, vậy mà tôi nhận được ra anh ngay, và anh cũng nhận ra được tôi ngay. Tức cái cảm giác của chúng tôi về nhau bước đầu vậy là không sai.

Anh S. bây giờ hầu như ở nhà chỉ một mình, các con anh đều đã trưởng thành và ra ở riêng, chị ấy thì hết đi nuôi cháu này lại đi nuôi cháu khác. Chúng tôi tự nấu ăn với nhau, và ngoài những lúc anh đi làm hay những hôm anh đưa tôi đi xem DC, hai chúng tôi thường ngồi với nhau, nói đủ thứ chuyện. Những đêm ngồi với anh S., nhiều đêm đến gần suốt sáng, tôi cứ thầm nghĩ: tôi đang đối diện, tôi không muốn dùng chữ to tát đâu nhưng mà sự thật đúng là vậy, tôi đang đối diện với một phần máu thịt của dân tộc ta, mà những trầm luân của cái thế giới và cái thời đại vừa tuyệt vời vừa khốn nạn này đã chia cắt ra, từng đưa đến đối mặt sống còn với nhau, và bây giờ xa cách nhau đến hàng vạn cây số, muốn đến với nhau đi về phía Tây hay phía Đông đều phải qua cả đại dương mênh mông, và có vượt qua đại dương rồi cũng chẳng thể đến ngay với nhau được thật dễ dàng đâu, bởi những ngăn cách kỳ quặc mà người ta gọi là ngăn cách ý thức hệ. Mà cái phần máu thịt ấy nào có ít đâu, những gần ba triệu người, riêng ở Mỹ gần hai triệu. Có ai đó đã nói: trên thế giới có hai dân tộc lưu vong nhiều và lâu trong lịch sử, dân Do Thái và dân Trung Quốc (có lẽ phải kể cả người di-gan nữa). Còn đây là lần đầu tiên người Việt Nam mới biết đến lưu vong. Người Việt chúng ta là một dân tộc không có kinh nghiệm lịch sử lưu vong. Vậy mà bây giờ đó là một thực tế, và một thực tế lớn. Ta đang tạo ra những kinh nghiệm mà cha ông ta từ nghìn đời trước chưa biết đến bao giờ…

Tôi không muốn nói rằng anh S. là đại diện cho cái phận máu thịt bị cắt ra đó, cắt ra một cách giả tạo. Và chắc chắn anh ấy cũng không bao giờ muốn nhận vai trò đó. Nhưng một cá nhân, bằng nhân cách đặc biệt của mình, đôi khi lại có thể cho phép ta qua họ mà hiểu ra được nhiều điều cần hiểu và ta lại không hiểu về một bộ phận người không nhỏ nào đó do những hạn chế khó tránh của cái góc độ mà cuộc đời đã đặt ta vào đấy nhiều chục năm dài. Anh S. theo tôi là một cá nhân như vậy. Tôi cám ơn số phận đã cho tôi gặp anh, cám ơn anh đã cho tôi hiểu thêm về cái phần dân tộc mà hoá ra tôi vốn hiểu rất ít, thậm chí hầu như chẳng hiểu gì, nếu không nói là từng hiểu chẳng ra làm sao cả.

Để tránh dông dài, tôi xin phép nói rất vắn đôi điều về cuộc đời anh, như anh đã tâm sự với tôi trong những đêm dài. Hoá ra con đường đời của hai chúng tôi suýt chút nữa đã có thể găp nhau từ nửa thế kỷ trước, thậm chí cùng đi với nhau một nhịp từ ấy đến giờ. Anh quê ở một thành phố biển đẹp nhất miền Trung, trong một gia đình theo tôi là một gia đình khá giả và trí thức. Người chị cả của anh là sinh viên khóa đầu tiên của trường Mỹ thuật Gia Định. Tôi có được gặp chị hôm chị từ Cali lên thăm anh và các cháu. Chắc chắn hồi trẻ chị là hoa khôi của thành phố quê hương, năm nay đã 90 mà nét đẹp vẫn hầu chưa phai, sắc sảo mà thuần hậu, thanh nhã và cao quý. Nhà anh S. treo nhiều tranh của chị, hiện đại đến không ngờ. Một người chị thứ hai của anh thì tôi biết rất rõ, từ hơn nửa thế kỷ trước: chị đã bỏ thành phố bị chiếm của mình ra tham gia kháng chiến, và ở cùng đơn vị bộ đội với tôi nhiều năm, thuộc lớp tuổi đàng chị của tôi, và tôi nhớ chị rất đẹp, nổi tiếng một thời ở vùng kháng chiến chúng tôi. Về sau, do hoàn cảnh gia đình, chị không đi tập kết … Ba anh S. thì, theo như anh kể, hồi đầu kháng chiến chống Pháp từng lên chiến khu tham gia sản xuất vũ khí, rồi sau đó cũng vì những điều kiện gia đình, trở về thành phố, một người trí thức yêu nước thầm lặng … Vậy đó, cuộc thế với những sắp xếp cứ như thật tình cờ và nhỏ nhoi đã đặt cái gia đình trí thức nền nếp và yêu nước đó đứng về cái phía mà chúng ta gọi là "phía bên kia của cuộc chiến", khi đất nước bị chia đôi và đi vào chiến tranh lần thứ hai.

Anh S. lớn lên trong hoàn cảnh gia đình và đất nước đó. Anh học giỏi, yêu văn chương nghệ thuật, là một thanh niên tài hoa. Anh hiểu kháng chiến, nhưng anh không thích cộng sản và những người cộng sản, anh nói rõ với tôi như vậy. Vì sao? Vì cái hệ thống lý thuyết của nó mà anh không tán thành, cái hệ thống theo anh đã đưa đến một sự mô tả giả về tình hình giai cấp ở ta rồi lại từ đó tổ chức một cuộc đấu tranh giai cấp thật tàn bạo và chia rẽ dân tộc một cách vô lý. Anh biết điều đó qua những câu chuyện về cải cách ruộng đất tệ hại do những người di cư từ miền Bắc vào sau năm 1954, trong đó có những văn nghệ sĩ tài năng và nổi tiếng nhất ở miền Nam bấy giờ mà anh quen và thân kể lại, … rồi sau này nữa khi những người cộng sản chiến thắng tiến vào Sài Gòn và lặp lại cái công cuộc cải tạo tư sản ở đấy. Cả trong việc họ giam giữ, hành hạ, làm nhục kéo dài đối với những người thuộc chính quyền và quân đội Sài Gòn cũ … Tất cả những ấn tượng nặng nề ấy ám ảnh anh, nhưng đối với anh, điều còn nguy hiểm và gây cho anh nhiều đau đớn hơn là tất cả những cái đó đã tàn phá những nền tảng văn hoá đạo đức lâu dài, bền vững nhất của xã hội, làm băng hoại con người. Anh nhìn xã hội và cuộc thế dưới cái nhìn của một nhà văn hoá, và những gì của đất nước hiện ra dưới cái nhìn ấy khiến anh không nguôi quằn quại tận tâm can.

Sống ở miền Nam thời bấy giờ, anh đã chọn một nghề anh cho là trong sạch nhất: anh đi dạy học, ở một trường đại học nhỏ mà có tiếng ngay tại thành phố quê hương. Cũng có bị bắt lính vài năm, nhưng rồi xoay xở thoát được, lại trở về ngôi trường thân yêu của mình…. Sau năm 1975, khi đã định cư ở Mỹ, anh đã có mấy lần về nước, thăm lại ngôi trường của anh, gặp lại thầy xưa, bạn cũ, sinh viên cũ của mình. Anh có cho tôi xem một số ảnh và một số đoạn phim quay cảnh bạn bè thầy trò cũ gặp lại nhau, và tôi nhận ra: rõ ràng anh được tất cả những con người ấy, nay đang sống và làm việc ở nhiều cương vị khác nhau tại Việt Nam, cũng có người có cương vị khá cao, hết sức quý trọng, thật sự kính yêu. Một nhà giáo dục tâm huyết, mẫu mực và tài hoa. Một con người trung thực, giàu sức hấp dẫn, một người trí thức chân chính.

Anh sang Mỹ ngay sau năm 1975, không phải do nợ nần gì với cách mạng, mà do không đồng tình với hệ tư tưởng nay đang trở thành thống trị trong xã hội, anh thấy sẽ rất khó sống trong không khí xã hội ấy. Vợ con anh lần lượt đi theo sau, nhiều lần vượt biên không thành, bị bắt lên bắt xuống, đến lần sau cùng đi được là do có sự giúp đỡ của một cán bộ rất cao cấp nay đang làm việc trong một ngành liên quan đến đối ngoại, nhưng ngày trước, trong kháng chiến chống Pháp lại là cán bộ quân sự từng có quen biết người chị đã ra tham gia bộ đội ở đơn vị tôi lúc bấy giờ, thậm chí cũng rất có thể anh ấy đã từng thầm yêu chị, tôi không sợ đoán nhầm lắm đâu, ngày đó anh ấy là sinh viên Hà Nội Nam tiến, tài hoa và lãng mạn, đánh giặc giỏi và đẹp trai, còn chị thì như là hoa khôi ở vùng kháng chiến chúng tôi. Vậy mà khi được giúp đi Mỹ, thì cả gia đình anh S. đi hết, riêng chị lại ở lại, nay vẫn sống ở Sài Gòn. Trong cuộc đời, làm sao hiểu hết được những níu kéo riêng tư đối với từng con người…

Có dịp làm quen với nhiều người Việt ở Mỹ, tôi mới thật sự hiểu ra những năm đầu sang đấy họ đã chịu bao nhiêu gian nan ghê gớm và đã can trường vượt qua khó khăn đến chừng nào. Mỗi cuộc đời làm lại trên đất khách là cả một sự tích kỳ diệu, mà lắm trường hợp gọi là anh hùng cũng không quá đáng đâu. Chẳng hạn, tôi có được làm quen với một người chủ hiệu sách tiếng Việt ở Cali. Anh ấy từng là chủ xuất bản một nhà sách nổi tiếng ở Sài Gòn trước đây. Anh không viết lách gì, nhưng yêu và tôn sùng sách như một tín đồ của một tôn giáo nhiều khi đến cực đoan. Sang Mỹ sau 1975 với hai bàn tay trắng, anh liều mình lên tận vùng Alaska sát ranh giới Bắc cực, 10 năm làm nghề đánh cá mà anh chưa từng biết chút gì, chắt chiu nhịn nhục âm thầm gom góp, 10 năm ròng vật lộn đầm mình trong băng tuyết, để cuối cùng có được chút vốn trở xuống Cali lập lại một nhà xuất bản, lấy lại đúng tên nhà xuất bản ở Sài Gòn trước đây của anh, in những quyển sách thật quý, thật đẹp, thật sang trọng …. chủ yếu để mà ngắm chứ nào có bán được mấy đâu. Tôi đến mua sách của anh lần đầu năm trước, năm sau trở lại, đã thành bạn quen, anh ra chào tôi, rồi lấy xuống từ kệ sách một cuốn Lược Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê anh mới in lại, bìa cứng, thanh nhã, tuyệt đẹp, ký tặng tôi: "Tặng anh cuốn sách cuối cùng của nhà xuất bản VN". "Cuốn sách cuối cùng", vì cái nhà xuất bản mà anh đã phấn đấu như một người anh hùng để khôi phục trên đất khách, bất chấp tất cả hy sinh to lớn của anh, đến nay cũng phải đành đóng cửa thôi. Lớp người Việt đọc được tiếng Việt trên đất Mỹ ngày càng mòn mõi đi. Thế hệ một, thế hệ một rưởi, rồi thế hệ hai, thế hệ ba … Rồi sẽ đến lúc hầu như không còn người gốc Việt biết nói và đọc tiếng Việt nữa. Biết làm sao được, cuộc sống là vậy…

Anh S. cũng từng trải qua những vật lộn ghê gớm chẳng kém để tồn tại và tìm được một chỗ đứng trong cái đất nước và xã hội mới, đầy hứa hẹn mà cũng lắm dữ tợn này. Cũng như rất nhiều trí thức đã bỏ nước ra đi những năm ấy, anh đi làm đủ thứ công việc, không từ cả nghề khuân vác, gác gian …Và ra sức học, học như lao vào một cuộc chiến sinh tử. Không chỉ để tìm chỗ đứng cho chính anh, mà còn để chuẩn bị cho vợ và các con anh sẽ sang sau nữa. Anh hùng và thông minh, cực kỳ tài năng, anh trở thành kỹ sư, rồi trở thành nhà nghiên cứu khoa học, làm chuyên viên kỹ thuật trong một cơ quan khoa học hàng đầu của nước Mỹ, và cũng có thể của cả thế giới ngày nay… Ba mươi năm. Vợ và các con anh sang sau, nay cũng đều đã ổn định và trưởng thành. Cả năm người con anh, con gái con trai, đều đã là tiến sĩ. Còn anh, anh bảo tôi năm nay anh sẽ xin nghỉ hưu. Anh muốn trở về với công việc yêu thích nhất của anh: viết và vẻ. Và lang thang đây đó, nhìn ngắm và suy nghĩ về cuộc đời …

Trong những đêm trắng ngồi với anh giữa ngôi nhà mênh mông ở DC, nhâm nhi rượu vang đỏ mà anh có đầy cả một tầng hầm, chúng tôi nói với nhau lang bang không biết bao nhiêu chuyện về đủ thứ trên đời, từ văn học nghệ thuật, cả triết học phương Đông và phương Tây, về các bạn bè cũ mà hoá ra chúng tôi bằng con đường này hay con đường khác đều cùng quen biết, thậm chí thân thiết, số phận khác nhau của từng người, cho đến chuyện chính trị nước Mỹ, nước Tàu, nước Nga, rồi nước mình … Nhưng rồi hầu như bao giờ cũng vậy, cứ như bằng một sức hút nam châm vô hình mà có thực và dai dẳng, câu chuyện cuối cùng bao giờ cũng lại dắt chúng tôi về một đề tài, một trăn trở không sao dứt ra nổi, và không biết rồi có bao giờ hoàn toàn dứt ra được không: Vì sao chúng tôi, những người như anh và tôi, từ trong sâu thẳm mỗi chúng tôi, chúng tôi gần nhau đến thế, có thể gặp nhau ở vô số điểm và đều là những điểm căn cốt nhất của nhân sinh … lại bổng bị chia cắt ra xa nhau đến thế, và bây giờ nói cho thật chân thành thì con đường đến lại với nhau cũng không hoàn toàn đơn giản và suông sẻ. Vẫn có một rào cản nào đó mà chúng ta, chúng tôi đang cố gắng vượt qua, mong rằng sẽ vượt qua được, nhưng quả thật chẳng hoàn toàn dễ dàng.

Anh S. thường kể với tôi về cuộc sống của anh và các bạn anh, những người anh thật sự thân thiết và quý trọng, trong đó có những người là nhà văn, là nghệ sĩ, là nhà giáo, mà cũng có một số người là sĩ quan trong quân đội Sài Gòn trước đây. Và dần dần tôi nhận ra điều này, mà trong một đêm tôi cũng đã thẳng thắn nói với anh: hoá ra tôi, chúng tôi, những người kháng chiến chống Mỹ, chủ yếu lăn lộn ở trên rừng những năm tháng ấy, chúng tôi quả thật không hề biết rằng trong các thành phố miền Nam ngày ấy còn có một bộ phận đời sống như thế, với những con người như thế. Trong hình dung của chúng tôi, ở các thành phố ấy bấy giờ chỉ có hai tình trạng đối lập nhau: một cuộc sống bức bối, ngạt thở, hết sức đen tối về tinh thần, và cả nhầy nhụa nữa cũng nên, dưới gót dày chiếm đóng của người Mỹ thô lỗ và hống hách; và mặt khác một cuộc chiến đấu căng thẳng, lặng lẽ và vô cùng anh hùng của những người nằm vùng chống lại ách chiếm đóng ấy. Chúng tôi không biết có những người như anh, không phải chỉ từng người cá lẻ mà là cả một tầng lớp, một bộ phận xã hội đáng kể, yêu nước và cả chống Mỹ nữa, một lòng yêu nước đáng kính trọng dù con đường để thực hiện lý tưởng đó có khác con đường chúng tôi đã đi; và chống Mỹ, ghét Mỹ, khinh bỉ Mỹ một cách đầy bi kịch vì lại phải dựa vào Mỹ để chống lại cái hệ ý thức mà họ nghĩ là có thể gây hại lâu dài cho đất nước, dân tộc… Và họ không chỉ có một đời sống tinh thần như vậy, mà thật sự cũng đã tạo ra được một không gian xã hội không quá nhỏ bé đâu, để chẳng hạn làm sinh nở cả một trào lưu văn học và nghệ thuật, một đời sống văn hoá tinh thần trong đó có những giá trị không nhỏ chút nào … Có lẽ chính cái khoảng không gian lớp người ấy từng dũng cảm tạo được đó đã tạo điều kiện để có thể có được chẳng hạn một nhạc Trịnh chắc sẽ còn sống lâu dài lắm với chúng ta. Trịnh mà tất cả chúng ta đều yêu, và chắc chắn sự nghiệp nghệ  thuật của anh là một phần tài sản tinh thần từ nay không thể thiếu của dân tộc. Và cả những giá trị văn học nữa mà tôi nghĩ đến một lúc nào đó, cũng không nên để chậm trễ quá nữa, cần được đánh giá công bằng và khôi phục lại, bởi vì nói cho đúng đấy cũng đều những tài sản văn hoá quý báu của đất nước, chẳng ai có quyền tước đi mất của nhân dân… Giá như ngày ấy chúng tôi, chúng ta hiểu thêm được thành phố như thế thì tình hình đã có thể khác, cho lúc bấy giờ, và cho cả bây giờ … Nhưng, ở đời là vây, "giá như" tức là "nếu". Mà lịch sử thì không có "nếu". Lịch sử, khi nó đang còn là hiện thực tức thì diễn ra trước mắt chúng ta, không bao giờ cho chúng ta nhìn thấy được tất cả bức tranh toàn cục của cuộc thế. Nó che lấp đi rất nhiều mặt, trong đó rất có thể có cả những mặt thật sự rất quan trọng . 

Tôi đã nói với anh S. suy nghĩ đó của tôi, và tôi cũng đã nói với anh rằng về phần anh, các anh cũng vậy, các anh ngày ấy cũng bị cái gọi là lịch sử cụ thể đó che lấp đi một mảng rất lớn của hiện thực. Các anh chủ yếu sống ở thành phố, hầu như không biết chút gì về nông thôn mênh mông của chúng ta cả. Mà tội ác của chính quyển miền Nam và của Mỹ thì chủ yếu lại diễn ra ở nông thôn, bên ngoài xa lắc các thành phố hào hoa và cũng khá phồn thịnh và tương đối yên bình thời ấy. Một hôm ở Texas, tôi tình cờ gặp một người cùng quê, trước đây từng làm tỉnh phó tỉnh Quảng Nam, đúng thời chính quyền Ngô Đình Diệm, giữ một chân phụ trách phần hành chính gì đó hình như cũng không quan trọng lắm. Anh ấy rất thản nhiên bảo tôi rằng theo chỗ anh ta biết một cách chắc chắn thì đạo luật chống cộng khét tiếng 10-59 đúng ra chỉ giết có mỗi hai người thôi! Tôi không nghĩ anh ta cố tình nói dối. Anh nói đúng điều anh biết: đạo luật ấy đúng là đã đưa ra xử tử hình hai người trước toà án công khai của chính quyền Sài Gòn. Còn hàng ngàn, hàng vạn người bị tàn sát, đày đoạ ở khắp nông thôn miền Nam những năm tháng ấy trong các chiến dịch tố cọng diệt cộng trả thù những người kháng chiến chống Pháp, anh không biết và không nói đến. Tôi có nói với anh ấy rằng chính người cậu ruột tôi, quê ở thôn Hưng Mỹ, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, Quảng Nam, vùng đất mà anh ấy chắc chắn biết rất rành rọt, đã bị giết chết trong cái chiến dịch khốn nạn ấy, ngay từ 1955, bị giết vô cùng dã man bằng cách dùng một cấy đũa tre vót nhọn đâm xuyên qua tim khi đã bị trói chặt tay chân. Sau năm 1975, người con trai của ông, tức người anh con cô con cậu  của tôi, đã hằm hằm về tìm đúng tên ác ôn đã sát hại cha mình, quyết trả thù, và chính tôi đã giật lấy khẩu súng trong tay anh, ngăn hành vi manh động của anh… Quả thật đã có hận thù, quá nhiều hận thù chồng chất từ cả hai phía, tôi nói với anh S. Vấn đề bây giờ là, nếu quả thật dân tộc chúng ta là một dân tộc anh hùng, thì sự anh hùng bây giờ là hãy anh hùng "bước qua lời nguyền" lịch sử để lại ấy đi, để đến với nhau, mà tôi tin là hoàn toàn có thể đến với nhau được, như tôi và anh, chúng tôi đã đến với nhau và đã tìm thấy ở nhau vô số điều đồng cảm, từ những buồn vui nhỏ nhặt đời sống hằng ngày cho đến những nghĩ suy sâu xa và mong ước thống thiết, cả tin tưởng nữa ở số phận dân tộc. Tôi cũng nói với anh rằng tôi thật lòng cảm phục những người như anh, và không ít những người bạn khác tôi gặp và được quen ở Mỹ, đã vượt qua được cái bước khó khăn ấy để có một thái độ ôn hoà và một lòng mong muốn hoà giải thật sự giữa những bộ phận máu thịt của dân tộc đã bị lịch sử chia cắt ra, mặc dầu còn rất nhiều bất đồng ở phía bên này cũng như phía bên kia. Tôi biết các anh cần nhiều sự dũng cảm hơn chúng tôi để làm cho được việc ấy, vì trong cuộc chiến vừa qua chúng tôi đã là người chiến thắng, mà đối với người chiến thắng lẽ ra thái độ và hành động hoà giải phải chủ động và dễ dàng hơn nhiều. Nếu chúng tôi không chủ động và thấy dễ dàng hơn trong việc này, thì quả thật chúng tôi rất kém cõi và hết sức đáng trách…

Đêm ngoại ô DC yên tĩnh một cách khác thường. DC thật đẹp, nhất là ở những khu ngoại ô này, ở thành phố mà cứ như ở trong rừng, và rừng thì bao giờ cũng vậy, dễ gợi cho người ta vừa sự bình tâm sâu xa lẫn những suy tư có thể thăm thẳm. Khuya lắm rồi đêm ấy, anh S. trầm ngâm rót đầy ly vang cho tôi rồi cho anh, chúng tôi lặng lẽ cụng ly với nhau, lại im lặng rất lâu, rồi anh nói, rất chậm và nhỏ: "Nhiều lúc tôi có suy nghĩ thật vớ vẫn, anh ạ. Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn … Nhưng mà miền Nam thì chắc chắn không thể nào thắng được, làm sao mà thắng được, hở anh. Vì vô số nguyên do và đều là những nguyên do có tính chất cơ bản, quyết định cả. Vậy đó! …"

Tôi đã có lần đọc câu này của anh trong một bài anh trả lời phỏng vấn. Và tôi hiểu anh: Anh muốn nói đến những nền tảng cơ bản nhất của văn hoá và đạo đức xã hội, mà chúng ta, trên con đường mà chúng ta đã chọn để đi đến chiến thắng, do éo le và áp lực từ chính con đường bắt buộc phải chọn ấy, và do cả những lỗi lầm lẽ ra cũng có thể tránh được của chúng ta nữa, chúng ta để cho băng hoại mất đi. Tổn thất đó rất lớn, có những điều thuộc về nền tảng cơ bản và lâu dài. Ở miền Nam, trong một chừng mực nào đó và trong những phạm vi nào đó, anh và những người như anh đã cố gắng gìn giữ nó tốt hơn. Ý nghĩ đó của anh chắc là  còn phải được cân nhắc kỹ và tinh tế lắm nữa để nhận ra cho thật rành rẽ chỗ đã phải chỗ chưa hoàn toàn phải. Nhưng có điều chắc chắn, chỉ một người yêu đất nước mình và nền văn hoá của đất nước mình lắm mới có thể nghĩ và nói đến những điều như vậy. Thổ lộ ra những suy nghĩ như vậy, một cách đau đớn, đến chừng rớm máu. Riêng tôi nghĩ, không biết tôi có sai không, có "mất lập trường" quá không, tôi, một con người đã cầm súng kiên định suốt ba mươi năm ở phía bên này của  cuộc chiến, tôi thật sự muốn lần ra một phần lẽ phải, dù là nhỏ thôi nhưng mà cần thiết lắm, trong điều anh nghĩ và chân tình và đau đáu nói với tôi… 

Tôi có gặp các con anh., cả các cháu nội ngoại của anh. Trong gia đình anh, bây giờ phân tán từ bắc đến nam nước Mỹ, có một quy định nghiêm ngặt: mọi người phải biết và nói giỏi tiếng Việt. Anh bảo gia đình anh sẽ giữ điều đó cho đến đời chắt, đời chít của anh chị. Nhưng rồi có hôm anh hỏi tôi, trăn trở và đau đớn: "Nếu ở thế hệ này của chúng ta, trong nước với ngoài nước chúng ta không thật sự hoà giải được với nhau, thì rồi đến thế hệ sau, thế hệ sau nữa, sẽ ra sao đây? Những người ở bên này lúc ấy có còn là một bộ phận máu thịt thống thiết của Tổ quốc chúng ta, như chúng tôi bây giờ nữa hay không?". 

Dân tộc Việt chúng ta trong lịch sử là một dân tộc không có kinh nghiệm lưu vong, trong khi người Do Thái, người Trung Hoa từng có kinh nghiệm lịch sử lâu dài đó, và đã biến thực tế đó thành một sức mạnh nhiều mặt, thậm chí vô giá của đất nước và dân tộc họ trong tồn tại và phát triển.

Còn chúng ta?   

Câu hỏi ấy đặt ra đương nhiên cho những người Việt đang ở cả hai bên đại đương, nhưng cũng đương nhiên trước hết cho chúng ta, vì chúng ta đã là người chiến thắng và đang có trong tay cả đất nước và chịu trách nhiệm về đất nước ấy.   

Tháng 11-2005

N.N.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét