Mấy tuần lễ gần đây, chuyện nợ công của chúng ta đã trở thành dòng chủ lưu thu hút sự chú ý của không chỉ người trong nước mà cả các định chế quốc tế và dư luận nước ngoài.
Thông tin về nợ công được sự cộng hưởng tình hình nợ của các nước trên thế giới một lần nữa khiến các nhà phân tích phải quan tâm nhiều hơn đến những cố gắng của Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát, vực dậy nền kinh tế chưa thấy dấu hiệu khả quan, bởi điều này liên quan đến khả năng trả nợ của chúng ta.
Thật ra thì mắc nợ không phải là vấn đề quá lớn đối với một cá nhân, doanh nghiệp hay quốc gia khi cần đồng vốn cho việc phát triển. Điều lớn nhất và quan trọng hơn cả là làm sao phát huy hiệu quả các khoản tiền vay để trả được nợ đúng thời hạn và tạo niềm tin để chủ nợ sẵn sàng đến với con nợ; nhất là đối với các khoản vay của Chính phủ hoặc của doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh, thường được hiểu là nợ công để phân biệt với nợ quốc gia bao gồm nợ công và các khoản vay thương mại các doanh nghiệp tự vay.
Nói đến nợ công, người ta nghĩ đến tỷ lệ của các khoản vay so với GDP và thường tỷ lệ an toàn được cho là dưới 50%. Thế nhưng, đây không phải là điều tuyệt đối vì còn tùy thuộc vào tiềm năng của nền kinh tế cũng như tỷ lệ nợ vay trong nước, nước ngoài, nợ ngắn hạn, dài hạn là bao nhiêu.
Trong hai tuần qua, có một số thông tin liên quan đến tình hình nợ công của Việt Nam được dư luận chú ý.
Thứ nhất là, trong bản tin nợ nước ngoài năm 2010 của Việt Nam vừa được Bộ Tài chính công bố chính thức, nợ nước ngoài của chính phủ và các khoản vay của doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh lên đến 32,5 tỉ USD, tăng 4,6 tỉ USD so với năm trước. So với GDP, nợ nước ngoài của chúng ta chiếm 42,2%, cao hơn con số 39% của năm 2009 và tăng cao nhất kể từ năm 2006.
Điều đáng nói là với khoản nợ này, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay đến 2015 mỗi năm chúng ta phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỉ USD và mức trả nợ cao nhất sẽ rơi vào năm 2020 với con số lên đến 2,4 tỉ USD.
Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại thuộc Bộ Tài chính dự kiến trong năm 2011, nợ công bao gồm cả vay nước ngoài lẫn trong nước sẽ lên đến mức 1.375 tỉ đồng, tương đương 58,7% GDP. Tính ra từ năm 2007 đến cuối năm 2011, nợ công của chúng ta đã tăng khoảng 25%, đạt mức trung bình 5%/năm, và với đà này thì trong vòng tám năm nữa, nợ công của Việt Nam sẽ lên 100% GDP theo cách tính của chúng ta, nếu tính theo WB và IMF sẽ còn cao hơn nữa.
Đây là một thách thức lớn về công nợ trong tình hình nền kinh tế vẫn chưa vượt qua khó khăn do các biện pháp kiềm chế lạm phát vẫn chưa phát huy tác dụng.
Thứ hai là, Hãng định mức tín nhiệm Standard&Poor's (S&P) vừa hạ một bậc điểm tín nhiệm nợ công của Việt Nam bao gồm nợ trong nước và nước ngoài. Trong tuyên bố phát đi ngày 19-8, S&P cho biết điểm tín nhiệm nợ dài hạn bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã bị giảm về BB- từ mức BB trước đó. Điểm tín nhiệm nợ dài hạn bằng đồng ngoại tệ của Việt Nam được S&P giữ ở mức BB-, điểm tín nhiệm dành cho nợ ngoại tệ ngắn hạn cũng được duy trì ở mức B.
Tuy việc hạ điểm xuất phát từ phương pháp đánh giá tín nhiệm mới nhưng hãng này cho biết, triển vọng tín nhiệm đối với các xếp hạng trên của Việt Nam là mức tiêu cực. Điều này phản ánh tình trạng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro về bất ổn kinh tế và tài chính trong ngắn hạn. S&P cho biết có thể hạ điểm tín nhiệm của Việt Nam nếu những áp lực đối với cán cân thanh toán hoặc những rủi ro trong lĩnh vực tài chính gia tăng. Và nếu điều này xảy ra sẽ là khó khăn lớn cho chúng ta trong việc vay nợ nước ngoài.
Thế nhưng mối lo về nợ công không hẳn nằm ở tỷ lệ nợ trên GDP mà là việc sử dụng những khoản tiền vay ấy sao cho có hiệu quả, nghĩa là phải nâng cao chất lượng đồng tiền vay qua các dự án đầu tư thực sự hữu ích. Trong thực tế, đầu tư công kém hiệu quả lâu nay và các biện pháp hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra tình trạng bội chi ngân sách khiến chính phủ phải đi vay tiền để bù vào chi tiêu.
Có thể dẫn chứng một vài thông tin minh họa cho tình hình này. Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến 31-12-2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 287.000 tỉ đồng. Nếu tính cả nợ nước ngoài thì đến cuối 2008, tổng nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 23,9% GDP.
Trong năm 2009, theo báo cáo của Chính phủ thì nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 813.435 tỉ đồng, tương đương với 49% GDP. Nếu tính cả nợ của Vinashin là 86.000 tỉ (theo báo cáo của Bộ Tài chính) thì nợ của khu vực công đến cuối năm 2009 đã lên tới 54,2% GDP (đó là chưa kể đến phần của chín tập đoàn, tổng công ty chưa có số liệu).
Rõ ràng, nợ của cả doanh nghiệp nhà nước và chính phủ đều tăng rất nhanh trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước thật sự đáng lo ngại.
Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ nước ngoài và với những tính toán thận trọng nhất thì trong năm 2009, khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm không dưới 60% trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Cho dù hiện nay tổng khối lượng nợ công vẫn được cho là nằm trong ngưỡng an toàn, nhưng rõ ràng chúng ta đang đứng trước nhiều rủi ro phải cố gắng vượt qua.
Rủi ro thứ nhất là nguồn dự trữ ngoại tệ, trong đó phần được dành để trả nợ nước ngoài - mà theo thống kê của Bộ Tài chính là rất khiêm tốn.
Rủi ro thứ hai là vấn đề tỷ giá. Do những khoản nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu được quy đổi theo đồng đôla Mỹ, nên tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD biến động sẽ tạo ra chi phí trả nợ rất lớn. Khi tiền đồng càng mất giá, thì có nghĩa tiền trả nợ càng lớn hơn.
Xu hướng mất giá của đồng Việt Nam hiện đang được xem là nghiêm trọng. Theo số thống kê từ Bộ Tài chính, nếu năm 2007 VNĐ mất giá hơn 2% so với USD, thì đến hết năm 2010 tiền đồng mất giá hơn 10%, chưa kể hồi đầu năm nay, đồng Việt Nam còn bị phá giá thêm hơn 9% nữa.
Với sự mất giá của tiền đồng, cộng với lạm phát tăng mạnh, dù những khoản đi vay nợ nước ngoài được hưởng lãi suất ưu đãi thấp từ 1% đến 3%, thì các khoản vay cũng có thể bị đội giá lên nhiều lần. Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, nhận định "chúng ta đã từng vay những khoản tiền với tỷ giá khi đó chỉ chừng 11.000 đồng/1 USD thì nay tỷ giá quy đổi đã lên đến trên 20.000 đồng/1 USD. Rủi ro lớn nhất của chúng ta chính là tỷ giá hối đoái".
Rủi ro thứ ba thuộc về khách quan, đó là chúng ta đã bước vào ngưỡng cửa nước có thu nhập trung bình nên lãi suất vay không còn hưởng chế độ ưu tiên của các nhà tài trợ như lâu nay.
Trong thực tế chúng ta đang ở mức đầu tiên của khối thu nhập trung bình (1.000 USD lên đến gần 10.000 USD), nếu chuyển ngưỡng thì các luồng hay các lượng cho vay hỗ trợ như ODA hoặc các loại tiền khác, thì các lượng sẽ giảm xuống, còn nếu muốn giữ các khoản vay đó, thì chúng ta phải chấp nhận lãi suất tăng lên.
Theo thống kê, hiện nay tổng giá trị vay ưu đãi ODA năm 2010 của Việt Nam chiếm khoảng 75% tổng số nợ nước ngoài. Ngoài ra, có một số khoản vay ưu đãi khác dành cho các nước có thu nhập thấp, lãi suất bình quân dưới 3% một năm. Vì thế, khi đổi sang vị thế mới, Việt Nam sẽ gặp bất lợi cả về lãi suất cao hơn và khối lượng ít hơn đối với các khoản nợ ưu đãi này.
Tuy nhiên, bất lợi lớn nhất chính là bởi rủi ro từ nội tại của nền kinh tế vĩ mô Việt Nam. Những bất ổn như lạm phát cao, sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả, tham nhũng... khiến giá của đồng vốn (lãi suất tiền vay) cao hơn.
Có thể nói, trách nhiệm giải quyết các khoản nợ nước ngoài rất cao đòi hỏi trách nhiệm không chỉ của Bộ Tài chính mà còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh vay vốn hoặc tự vay. Về phía Chính phủ, cần có sự cân nhắc đối với các dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án của địa phương. Cũng cần thiết có biện pháp mạnh đối với các doanh nghiệp ù lì trong việc trả nợ để rồi "trăm dâu đổ đầu tằm", ngân sách phải chịu thiệt hại đồng nghĩa với việc người dân phải đóng thuế cho những phung phí và sai phạm trong quản lý của khu vực quốc doanh.
- Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét