Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

RFA. Tù Ca Việt Nam & Thù thành bạn từ một bài ca

Nguồn RFA

2012-04-29

Cuộc chiến tại Việt Nam đã kết thúc tròn 37 năm. Quá khứ đã khép lại, tương lai đã mở ra. Dù là người miền Nam hay miền Bắc thì tất cả cũng đã là một thời của tiềm thức.

Photo courtesy of phanchautrinhdanang.com

Một trại giam tại miền Bắc (ảnh minh họa).

Nhân ngày 30/4, chương trình âm nhạc cuối tuần hôm nay, xin được điểm lại một số nhạc phẩm được sáng tác trong thời ly loạn và nhất là của những người nhạc sĩ đã từng bị cầm tù, đánh đổi một phần tuổi thanh xuân nơi trại cải tạo.

Lữ Khách

Quý vị vừa cùng nghe ca khúc Lữ Khách, thơ của Phạm Kim Khôi do nhạc sĩ Phạm Thiên Tứ phổ nhạc với tiếng hát Việt Tiến. 

tu-cai-tao-2-250.jpg
Binh sĩ VNCH trong trại tù cải tạo sau ngày 30.04.1975. Captured from youtube.
Trong số hàng trăm ca khúc được sáng tác trong trại tù sau ngày 30/4/1975, nổi bật và được nhiều người biết đến, có lẽ là Lữ Khách, Hai Hàng Cây So Đũa, Quê Hương Ba Vòng Ngục Tù, tháng Tư 29 ngày… Nội dung của những bài hát này không chỉ nói đến sự mất tự do, kìm kẹp, mang âm hưởng bi tráng, mà lời ca nghe ai oán, mong một ngày được giải thoát để chim về được với trời xanh.

Nhận xét về những ca khúc được sáng tác trong thời gian này, nhạc sĩ Trọng Minh chia sẻ:

"Thực sự đa số những người viết nhạc trong tù sau ngày 30/4/1975, trong đó có cá nhân tôi, chưa có xứng với danh xưng là nhạc sĩ, với kiến thức âm nhạc của chúng tôi có phần hạn chế, mà rất ít hoặc không có người nào trong số chúng tôi được đào luyện hoặc tốt nghiệp từ những trường dạy nhạc. Có chăng theo chỗ tôi biết thì có vài vị linh mục đã tốt nghiệp các nhạc viện mà thôi.

Xoay quanh những chủ đề đó, tác giả của tù khúc đã khẳng định sự bất phục tùng giai cấp thống trị mới, cho thấy tính kiên cường bất khuất của những chiến sĩ bất đắc dĩ bại trận, nhưng họ không cam lòng thua trận.

Nhạc sĩ Trọng Minh

Nói như vậy để thấy được việc hình thành dòng nhạc tù là vô cùng khó khăn, bởi vì đối với một người nhạc sĩ chuyên nghiệp sáng tác một khúc nhạc hay một bài ca thì không thấy trở ngại gì, nhưng đối với chúng tôi là những người không giỏi về chuyên môn, nên việc sáng tác ca khúc không phải dễ dàng. Thêm nữa, sáng tác lại không có đàn để tìm giọng hay định cao độ nốt nhạc thì thật gay go. Gay go nhất là làm thế nào để mình lưu giữ nó cho những lần sử dụng về sau. Bởi vì mình không thể ghi ra giấy được. Hình phạt cho những tác giả của tù ca là cùm, nghĩa là nhốt riêng ra và cùm chân, cùm là có thời hạn hoặc vô thời hạn, không biết ngày nào tha.

Các chủ đề tù khúc thể hiện là thân phận của người tù, tình cảm, trách nhiệm của người tù đối với gia đình, đối với quê hương, dân tộc. Xoay quanh những chủ đề đó, tác giả của tù khúc đã khẳng định sự bất phục tùng giai cấp thống trị mới, cho thấy tính kiên cường bất khuất của những chiến sĩ bất đắc dĩ bại trận, nhưng họ không cam lòng thua trận."

Hai Hàng Cây So Đũa

tu-cai-tao-250.jpg
Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4, 1975. AFP photo.
Quý vị đang cùng nghe lại bài hát Hai Hàng Cây So Đũa. Tâm sự của người phổ nhạc cho bài thơ này, nhạc sĩ Trọng Minh một lần chia sẻ những ký ức một thời đã qua:

"Tôi nhớ lúc đó khoảng tháng 6 năm 1981, chúng tôi bị giam giữ tại Gia Rai, thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh, chỗ đó là Z30A, vào một buổi trưa, chúng tôi được anh Nguyên Huy mời một party nhỏ, bởi vì hôm trước đó, anh được chị cùng 2 đứa con lên thăm có mang cho anh một chút quà bánh.

Trong câu chuyện anh có vẻ không vui, khi hỏi ra mới biết chị dẫn các cháu lên thăm anh lần cuối trước khi tìm đường vượt biên hy vọng đến được bến bờ tự do. Anh quá xúc động, nên đêm trước đó, anh làm bài thơ và đọc cho mọi người nghe, bài thơ cảm động và nói lên một phần nào tâm trạng của riêng tôi. Tôi yêu cầu anh chép cho tôi bài thơ đó, hy vọng là tôi có hứng thú để viết nên bài nhạc. Thật là may mắn tôi có đủ cảm xúc và hứng thú để hoàn thành bài nhạc trong 2 ngày sau đó. Lấy tựa đề là bài Hai Hàng Cây So Đũa vì 2 bên đường dẫn vào nhà thăm nuôi là 2 hàng cây so đũa.

Nội dung bài nhạc đó, nói lên tâm trạng của người vợ đưa con lên thăm chồng trong tù, để từ giã trước khi lên đường vượt biên. Trong nỗi hoang mang không biết có đi trót lọt hay không, gặp nguy hiểm gì hay không, không biết có còn gặp lại nhau hay không, đó là những tình cảm hoài nghi, quyến luyến giữa 2 vợ chồng. Điều đó làm tôi xúc động nên viết bài Hai Hàng Cây So Đũa này."

Chúa Nhật Của Người Tù

Nếu trong Hai Hàng Cây So Đũa, người nghe bắt gặp hình ảnh chia ly của những cặp vợ chồng vì thời thế mà phải chia xa, thì trong bản Chúa Nhật Của Người Tù, nhạc sĩ Trần Ngọc Phong lại khắc họa khá rõ nét cuộc sống của những người lính bại trận trong trại giam. Đó là chuỗi ngày mất tự do, lao động cực nhọc bất kể nắng mưa, họ mơ về một bữa ăn no và một quá khứ mơ mộng năm nào.

Tôi rất bâng khuâng về vấn đề đặt một ca khúc làm sao gói trọn chuyện tù đầy cực khổ của mình.

Nhạc sĩ Trần Ngọc Phong

"Tôi rất bâng khuâng về vấn đề đặt một ca khúc làm sao gói trọn chuyện tù đầy cực khổ của mình, thì thực sự tôi có so sánh một số người đặt tù khúc về những cực khổ thì nó dài lê thê, bố cục không gọn, cho nên tôi cứ bâng khuâng hoài không biết đặt làm sao để tròn một ca khúc tiêu biểu.

Tôi nghĩ về văn học, tôi nghĩ đến Alexander Solzhenitsyn thì tôi thấy ông ta có một tác phẩm One Day in the Life of Ivan Denisovich. Tôi thấy rằng ông này bị tù trong trại tập trung của Liên Xô, ông diễn tả được chuyện chỉ một ngày trong nhà tù thôi. Tôi sực nhớ, liên tưởng đến tù của tôi, nên tôi nghĩ, mình trọn một ngày thôi, mà ngày nào bây giờ. Mình tin tưởng vào Chúa, mình cực khổ quá mà cũng chẳng thấy chúa giơ tay ban giúp gì mình, cho nên tôi mới đặt trọn Chúa Nhật Của Người Tù."


========================

Nguồn RFA

Thù thành bạn từ một bài ca


2012-04-30

Sau 30 tháng 4, chiến tranh VN không chỉ để lại nhiều mất mát, đổ vỡ mà đôi khi cũng có những mối tình đã đứng lên từ những đổ vỡ ấy.

Photo courtesy of wikipedia

Binh sĩ miền Nam VNCH trong thành phố Quảng Trị và tại vùng phụ cận năm 1972.

Tường An kể lại một trường hợp ngẫu nhiên, từ một bài hát đã biến hai người đã từng kẻ thù của nhau, trở thành hai người bạn thân thiết. Một bài báo của Đức cũng đã viết về tình bạn này dưới tựa đề « Von feinden zu Freunden. Eine deutsch-vietnamesische Spurensuch" tạm dịch "Từ thù thành bạn. Đi tìm một chứng tích Đức-Việt". Đó là câu chuyện của hai anh Lê Nam Sơn và anh Phạm văn Mài. 

Ở hai đầu chiến tuyến

Mỗi năm, đến ngày 30 tháng 4, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn được kể lại bằng những xúc động vẫn còn nóng bỏng của những người ở bên hai bờ chiến tuyến. 37 năm trôi qua, đất nước có thể đã thống nhất nhưng lòng người vẫn còn biên giới, vết thương 30 tháng 4 với nhiều người tưởng chừng như không thể hàn gắn được. 

Thế nhưng, thế giới không có quy luật cho lòng người. Vẫn có một chỗ đứng cho tình yêu thương, vẫn có nơi mà những mất mát có thể hàn gắn được. 
Đó là một buổi chiều của năm 1994, trong một hội trường nhỏ bé của thành phố Hannover, Đức quốc khi một người đàn ông với giọng Bắc Hà Nội ôm đàn cất tiếng hát bản « Những ngày xưa thân ái » , khởi đầu cho một tình bạn của hai người đã từng là kẻ thù, đã từng cầm súng bắn vào nhau trên cùng một trận địa ở Cổ Thành Quảng Trị.

Anh Lê Nam Sơn, gia nhập quân lực VNCH tháng 4 năm 1968, anh đã phục vụ trong tiểu đoàn pháo binh, lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến của quân lực VNCH với chức vụ cuối cùng là thiếu úy. Hồi tưởng lại những ngày cuối cùng của cuộc chiến, anh Sơn cho biết :

"Đơn vị tôi là đơn vị cuối cùng rút ra khỏi Quảng Trị, tới Thuận An thì bị kẹt lại, nhưng tôi lại được lên tàu đi đến Đà Nẵng, ở Đà Nẵng tôi được lệnh tái trang bị lại, vừa mới được lệnh đó thì lại có lệnh phải bỏ Đà Nẵng. Với đoàn tàu của Thủy quân Lục chiến tôi mới đi vào Nam, vào đến Cam ranh thì có lệnh tái trang bị, nhưng cuối cùng rồi lại có lệnh bỏ Cam ranh về tới Vũng tàu, sau đó thì đơn vị tôi rã hàng khi ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng."

Anh Phạm văn Mài, gia nhập bộ đội năm 1972, thuộc đơn vị trinh sát, trung đoàn 66, sư đoàn 304 với chức vụ cuối cùng là trung sĩ. Anh Mài cho biết về những ngày cuối tháng tư của năm 1975 :

"Ngày 30/4/1975 đơn vị chúng tôi đã tiến vào dinh Độc Lập, đi sau những xe tăng của lữ đoàn 203. Anh Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó của trung đoàn 66 của chúng tôi đã vào và tiếp nhận sự đầu hàng của ông Dương văn Minh. Tôi không có mặt ở dinh Độc lập, chúng tôi đến gần dinh Độc lập. Dinh Độc Lập xong rồi, chúng tôi đi thẳng ra đài phát thanh, lúc bấy giờ ông Thệ dẫn ông Dương Văn Minh ra để đọc lời đầu hàng."

Âm nhạc có sức mạnh vô biên của nó. Nếu những bản nhạc Anh là ai, Việt Nam tôi đâu…của Việt Khang đã đem người Việt trong và ngoài nước đến gần nhau thì bản nhạc « Những ngày xưa thân ái » cũng đã xóa đi được ranh giới giữa hai kẻ thù đã từng cầm súng bắn vào nhau. Có một định mệnh nào đó giữa bản nhạc này và những người yêu thích nó. 

Nếu nhà thơ Phạm Hổ, đồng sáng lập Hội Nhà Văn miền Bắc và nhà xuất bản Kim Đồng đã sáng tác bài thơ « Những ngày xưa thân ái » với những ý tưởng sắt máu, đầy ngập hận thù, thì em ông, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, một nhà giáo của VNCH đã biến bài thơ này thành một thông điệp đầy tính nhân bản, đầy lòng yêu thương qua hình ảnh của tình bạn, tình yêu quê hương bên lũy tre làng của thời thơ ấu. 

Khởi đầu một tình bạn

quangtri-worldpress-200.jpg
Cổ Thành Quảng Trị. Photo courtesy of wikipedia
Anh Nam Sơn nhớ lại lần đầu tiên nhìn người đàn ông với dáng dấp nửa chân quê, nửa phố thị ấy cầm đàn hát lên bản nhạc mà chính anh cũng yêu thích :

"Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thỉnh thoảng trung tâm VN Hannover tổ chức những buổi văn nghệ với chủ đề « Xa quê hương nhưng không quên tổ quốc lầm than » trong những đêm văn nghệ chủ đề đó thì có sự hiện diện của các anh em bên Đông Đức, trong đó có anh Phạm văn Mài, và anh Mài với cây đàn guitar và anh xin hát nhạc phẩm « Những ngày xưa thân ái » .

Tôi rất ngạc nhiên vì anh Mài là lính miền Bắc mà ảnh biết nhạc phẩm này vì thế tôi chú ý đến ảnh. Trong lúc anh Mài hát thì ảnh giới thiệu tiểu sử của ảnh là ảnh đã tham dự trận đánh Cổ thành Quảng trị 1972, đơn vị Thủy quân lục chiến của tôi cũng tham dự cuộc chiến ở Cổ thành Quảng trị năm 1972. Anh Mài và tôi đều tham gia một chiến trường ở hai đầu chiến tuyến khác nhau, lúc đó chúng tôi đã nhìn nhau bằng mắt lửa hận thù, chúng tôi xử sự với nhau bằng lưỡi lê, súng đạn và bây giờ thì chúng tôi gặp nhau trên đất nước Đức này. 

Sau khi tôi đã tìm hiểu Mài thì chúng tôi thấy rằng chúng tôi có chung 1 cái quá khứ, anh Mài tuy rằng ở phía bên kia chiến tuyến nhưng cuối cùng thì chúng tôi cả hai do một tình cờ lịch sử mà gặp nhau ở trên 1 nước tự do này và chúng tôi đều là nạn nhân của một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, do vậy chúng tôi đã kết bạn với nhau kể từ đó."

Chúng tôi có chung 1 cái quá khứ, do một tình cờ lịch sử mà gặp nhau ở trên 1 nước tự do này và chúng tôi đều là nạn nhân của một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, do vậy chúng tôi đã kết bạn với nhau kể từ đó.

Anh Lê Nam Sơn

Dĩ nhiên, không phải con đường đến với nhau nào cũng đơn giản khi mà sự mất mát đã quá nhiều, hơn 30 năm sau cuộc chiến, lòng người vẫn còn ngổn ngang bao nỗi, không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận một sự bắt tay giữa hai bờ chiến tuyến dù rằng ranh giới ý thức hệ ấy nay đã không còn. Nhưng những ám ảnh về quá khứ không còn là rào cản đối với anh Sơn và sự phê phán của cộng đồng chung quanh – nếu có- cũng không làm anh sợ :

"Nếu trong nước thì cái đó có thể làm cho tôi sợ, nhưng mà khi tôi đã sống trên đất nước tự do này thì quá khứ đó không còn ám ảnh tôi nữa. Tôi xem anh Mài và tôi đều là nạn nhân của một ý thức hệ. Tôi không có gì là sợ sệt khi kết thân với anh Mài và sự kết thân đó cũng không ảnh hưởng gì đến cái cộng đồng bảo rằng tôi là lính VNCH lại kết thân với môt anh bộ đội Bắc việt, tôi có cái quan điểm rõ ràng như vậy : tôi là người đấu tranh ôn hòa, không dùng bạo lực và cũng không có ý nghĩ căm thù." 

Nạn nhân của cuộc chiến

bodoiqtri-wiki-200.jpg
Bộ đội Việt Nam tại cổ thành Quảng Trị mùa hè 1972, ảnh minh họa. Photo vourtesy of wikipedia
Một bên là sĩ quan Thủy quân lục chiến, đội quân được từng coi là một trong hai thanh kiếm báu của QLVNCH, một bên là bộ đội phục vụ cho sư đoàn 304, quả đấm thép của quân đội Nhân dân miền Bắc. Hai bên đã từng chiến đấu kinh hoàng để chiếm bằng được Cổ thành Quảng trị, dù lúc đó chỉ còn là đống gạch đổ nát. Hai người lính năm xưa, giờ sống sót trở về và gặp nhau trên nước Đức thống nhất, họ đã tìm lại được tình anh em của Mẹ VN mà chiến tranh đã chia đôi, anh Mài tâm sự :

"Sau ngày 30/4/75 thì tôi đã có đủ góc độ để tôi nhìn lại cuộc chiến ấy và tôi nhận ra rằng ngày trước anh Sơn và tôi cũng đã gặp nhau trên một chiến trường, chúng tôi đã nói chuyện với nhau bằng súng, bằng đạn, bằng vũ khí. Nhưng mà đến bây giờ chúng tôi coi nhau như là những người anh em. Chúng tôi coi cuộc gặp gỡ này là sự tìm lại của những người anh em của cùng một Mẹ VN cả. Ngày trước, chúng tôi nói chuyện với nhau bằng súng đạn, bây giờ chúng tôi nghĩ rằng chúng ta nên xóa bỏ sự hận thù ấy đi, mình nhìn nhau như những người anh em tìm lại nhau, vì vậy chúng tôi kết bạn với nhau, trong lòng rất là thoải mái."

Anh Sơn gửi gấm tâm sự qua một bài anh viết về tình bạn của họ : « chúng tôi nhắc lại chiến trường xưa như nhắc lại một chứng tích của những cuồng ngông đầy máu và nước mắt. Là nạn nhân, chúng tôi thấm thía được cái giá phải trả của chiến tranh và lòng thù hận » Riêng anh Mài bày tỏ :

"Ngày 30/4/1975, cách nay đã 37 năm rồi, nhưng cho đến bây giờ đến ngày 30/4 tôi lại nhớ lại khung cảnh lúc đó, chúng tôi rất vui mừng vì cuộc chiến tranh mấy chục năm trời đã kết thúc, xương máu của anh em đồng đội chúng tôi không phải đổ ra nữa, chúng tôi lại được trở về với gia đình, tiếp tục làm những công việc dang dở của mình. 

Rõ ràng trong niềm hân hoan ấy, chúng tôi cũng nghĩ chúng tôi là người chiến thắng. Nhưng cho đến bây giờ, chúng tôi đã có 1 thời gian dài để chúng tôi thấy rằng sự chiến thắng ấy thật là bẽ bàng. 

Hàng triệu người đã đổ xương, đổ máu để góp phần xây dựng chính quyền, thế nhưng chúng ta đều thấy chính quyền bây giờ không mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước VN. Người dân VN vẫn còn phải gánh chịu bao nhiêu nỗi bất công trên đất nước của mình, tôi thấy thật là mỉa mai khi cho rằng chúng tôi là người chiến thắng. Cũng cần phải nói một cách chính xác là trong ngày 30/4 không có ai thắng, ai bại mà chúng tôi chỉ là những nạn nhân mà thôi."

Hơn 30 năm chưa từng trở về lại quê hương dù lòng còn trĩu nặng yêu thương cây dừa bên quán nước làng, anh Lê Nam Sơn vẫn canh cánh bên lòng một niềm hối tiếc :

"Tôi muốn nói với các bạn trẻ, nhất là các bạn trẻ đang đấu tranh cho Dân chủ trong nước, vì tôi là một người lính mang trọng trách giữ gìn bình an cho phần miền Nam tự do còn lại của mình nhưng chúng tôi đã làm không được. Thậm chí còn giao lại cho thế hệ trẻ một thế hệ tồi và dở để thế hệ đàn em chúng tôi phải long đong mà đấu tranh cho Dân chủ của đất nước. Đây là lời tâm ý của tôi."

Cũng cần phải nói một cách chính xác là trong ngày 30/4 không có ai thắng, ai bại mà chúng tôi chỉ là những nạn nhân mà thôi.

Anh Phạm văn Mài

Lần đầu tiên trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách, tại Nội Bài, anh Phạm văn Mài đã bị từ chối cho nhập cảnh. Quê hương của anh với những người chủ mới đã không còn là một quê hương mà thuở nào anh đã yêu thương với một tình yêu cháy bỏng như khi anh nhặt được bài hát nói lên được tâm trạng anh trên Cổ thành Quảng trị:

"Khi mà vào trong Quảng trị thì tôi có nhặt được bản nhạc « Những ngày xưa thân ái », khi mà nhặt được thì tôi rất thích và hát nhưng mà chỉ được hát vụng trộm thôi, tôi có hát cho anh em nghe, và có một số đồng đội rất là thích và anh em chúng tôi rủ nhau ra một góc khuất nào đấy, một góc rừng nào đấy rồi chúng tôi hát cho nhau nghe thôi, chứ còn bài hát này thì bị cấm không được hát trong đơn vị đâu."

Bản nhạc ngày xưa anh Mài phải hát trong sợ hãi, lén lút. Hôm nay đã được hai anh Sơn- Mài cầm đàn hát khắp Âu châu như rao giảng tiếng nói của lòng bao dung, sự vị tha trong căn cước nhân bản của mỗi con người. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét