Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

Vì Sao Trung Quốc Đang Hạ Cánh Nặng Nề - Phần 3 (A. Gary Shilling Bloomberg - Thương Dăng chuyển ngữ)

Nguồn dainamax

Thương Dăng chuyển ngữ 
 Rồng cuốn vào đuôi


Why China's Heading for a Hard Landing, Part 3:

Trung Quốc đang mong hạ nhiệt nền kinh tế nóng rực của mình [1] mà không thổi lên một trận suy trầm. Muốn như vậy là cực khó: Nỗi lo về nạn lạm phát đang tăng, khả năng ứng phó của chính phủ thì bị hạn chế; và vì cho các quan chức ngồi dự đoán tác động thị trường trên mệnh lệnh của họ, nói cho cùng mô hình kinh tế Trung Quốc ngày nay sẽ khó mà trụ vững.

Những mối lo về lạm phát khởi đi từ thị trường gia cư. Khi sản lượng xuất cảng của Trung Quốc bị giảm vì giới tiêu dùng Hoa Kỳ lo thắt hầu bao, thì luồng vốn đầu tư vào tài sản cố định [2] bị đe dọa [từ ba góc] là các biện pháp khống chế của chính phủ, công xuất dư dôi của hãng xưởng, và sức chi tiêu trong nước còn quá yếu, nên nhà cửa trở thành đầu máy thúc đẩy kinh tế tăng trưởng trong mấy năm gần đây. Theo một số ước tính thì phân nửa GDP của Trung Quốc có liên quan đến hoạt động mua bán bất động sản [3].

Chính phủ xứ này lo rằng giá sẽ leo thang nên ra tay ngăn nạn đầu cơ bất động sản. Hiện giờ người mua nhà phải đặt cọc 30% cho căn đầu tiên, và 60% khi mua căn thứ hai. Chính phủ ép giới ngân hàng ngưng tín dụng thế chấp, và một số còn nâng lãi suất. Hồi tháng Giêng, thị trưởng Thượng Hải đã công bố sắc thuế mới đánh vào các giao dịch bất động sản [4], một biện pháp được toàn quốc bắt chước để hạ cơn sốt giá.

Với những biện pháp khống chế hiện hành, và nguồn cung về bất động sản khởi sự bắt kịp nhu cầu, số nhà bán đã chậm lại. Nhưng điều này vẫn không đủ ngăn hiện tượng bong bóng bất động sản: Số nhà khởi công đã tăng 40% vào năm ngoái. Giới đầu tư vào nhà cửa đua nhau xây cất, đồng thời họ cố giữ giá đang rung rinh sắp đổ bằng cách trì hoãn việc hoàn tất và gây ra khan hiếm giả tạo. Dĩ nhiên, họ không thể cố mãi như vậy vì bị chôn vốn vào các dự án dở dang. Số lượng nhà mới đang xây hiện cao gấp đôi số nhà bán được, cao gấp nhiều lần tiêu chí trước đây [5].



Núi nợ Khổng lồ


Trong một bản báo cáo tuần này [6], Bộ Giám Định Kế Toán Quốc Gia [7] đã phát hiện ra nhiều khoản tín dụng của ngân hàng cho các quỹ tài trợ của chính quyền cấp địa phương [8] lại bị bơm trái phép vào mảng đầu tư bất động sản, góp phần vun lên một núi nợ bằng 27% GDP. Nhiều  khoản vay khổng lồ khác của các doanh nghiệp nhà nước lấy lý cớ xây dựng hạ tầng thì lại được tuồn qua đầu tư bất động sản và có thể gặp rủi ro.

Trong khi tồn kho [số nhà xây xong và chờ bán] tăng vọt thì nhu cầu lại giảm, còn chính phủ sở tại lại ra sức kiềm chế đầu cơ, nguy cơ bể bóng gia cư càng dễ trở thành hiện thực.



Vật giá Leo thang



Thị trường gia cư không là nơi duy nhất có dấu hiệu lạm phát. Tháng Năm vừa qua, giá tiêu dùng đã tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng Chạp năm rồi, giới lãnh đạo Trung Quốc đồng ý "nâng tầm quan trọng của việc ổn định mặt bằng vật giá nói chung" vào loại vấn đề kinh tế cần ưu tiên xử lý. Ở một xứ có quá nhiều người đang sống ở hoặc còn dưới mức nghèo khổ, thì chi phí lương thực rõ ràng là mối bận tâm chính của người dân, và trong tháng Năm, chi phí này đã tăng 11,7%  so với cùng kỳ năm trước.

Chính phủ có vẻ như ngày càng lo về tình trạng bất ổn xã hội. Tháng Mười Một năm trước, họ tuyên bố sẵn sàng áp dụng các biện pháp kiểm soát giá cả để giảm lạm phát, đặc biệt là giá năng lượng và thực phẩm, và còn khẳng định rằng chính phủ sẽ cấp thêm tiền phúc lợi xã hội cho dân nghèo. Mà tình trạng bất ổn vẫn tiếp diễn, và đáng ngại hơn, nó bắt đầu lan từ nông thôn ra khu vực đô thị.

Ngoài ra, nạn bất bình đẳng về thu nhập hiện vẫn còn đó. Dòng người chảy vào các khu đô thị trù phú hơn đã nâng mức sống bình quân, nhưng sự cách biệt giữa lớp người giàu với dân chúng còn lại cứ tiếp tục mở rộng. Năm 2010, thị dân có mức thu nhập bình quân đầu người một năm là khoảng 2.900 Mỹ kim, và một nông dân chỉ kiếm ra chừng 900 Mỹ kim. (Việc điều chỉnh theo mức chi phí thấp hơn ở nông thôn có thu hẹp khoảng cách.)



Hạn chế của Đối sách


Trước những mối lo này, khả năng ứng phó của Trung Quốc thật ra vô cùng hạn hẹp. Để triển khai chính sách tiền tệ [9], ngân hàng trung ương dựa vào việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc [10] và đặt ra hạn ngạch cho vay của ngân hàng. Từ tháng Giêng năm 2010, họ tăng mức dự trữ pháp định 12 lần (đến 21,5% của lượng tiền ký thác), nhưng chỉ bốn lần nâng lãi suất cho loại tín dụng có kỳ hạn một năm (đến mức 6,31%) vì cần đáp ứng nhu cầu vay mượn của các xí nghiệp quốc doanh kém hiệu quả đang tạo ra công ăn việc làm cho người dân.

Cuối cùng, việc thực thi bất kỳ chính sách nào trong một nền kinh tế do chính phủ kiểm soát một phần, và phần kia thì phụ thuộc vào thị trường, là điều rất khó. Trong nền kinh tế bị kiểm soát hoàn toàn, như nền kinh tế khép kín mà Trung Quốc đã quen trước đây, thì giới lãnh đạo chính phủ có thể đưa ra những quyết định phi hiệu quả nhưng các quyết định này không hề bị tranh cãi. Trong một nền kinh tế mở, ví dụ như của Tân Gia Ba (Singapore), thị trường là yếu tố quyết định, và giới chính trị hiếm khi nào can thiệp được.

Nhưng trong cách dàn xếp hiện tại của Trung Quốc, các viên chức có thẩm quyền đưa ra những quyết định hệ trọng phải dự đoán xem thị trường là sẽ phản ứng ra sao, rồi sau đó phải cố gắng chống đỡ những hậu quả bất lường do chính các quyết định của họ gây ra.



Hậu quả Bất lường


Chẳng hạn như về việc thả nổi có quản lý tỷ giá hối đoái, giới hữu trách phải ước tính là dòng tiền nóng [11] chảy vào Trung Quốc sẽ là bao nhiêu để tiên đoán sức mua của đồng bạc [sẽ mạnh hay yếu], sau đó mới xác định cách vô hiệu hóa tác động tiêu cực của dòng tiền này. Các chính sách khuyến khích xuất cảng và xuất siêu mậu dịch của Trung Quốc đã nâng dự trữ ngoại tệ xứ này lên đến hơn 3 ngàn tỷ Mỹ kim. Cho đến gần đây, thì mọi khoản thu ngoại tệ của doanh nghiệp xuất cảng đều phải được đổi ra đồng Nguyên, nhưng sau đó ngân hàng trung ương buộc phải phát hành trái phiếu để hút bớt lượng tiền này vào hầu đồng bạc khỏi mất giá [làm lạm phát gia tăng].

Tương tự, chính phủ Trung Quốc định sẵn mức cho vay hàng năm của các ngân hàng, nhưng để các ngân hàng và doanh nghiệp có nhu cầu quyết định lấy việc vay mượn của từng tháng. Vì vậy các ngân hàng đua nhau cho vay vào đầu năm vì sợ chính phủ sẽ nửa chừng hạ thấp định mức cho vay khi cần điều chỉnh [12].

Tôi ngờ rằng chính hình thái thị trường lai tạp [13] đầy bất trắc này không cho phép chính phủ Trung Quốc quản lý việc hạ cánh một cách êm ái. Theo tính toán của tôi, thì từ sau Đệ Nhị Thế Chiến đến nay Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ (Federal Reserve, hay Fed) [14] đã 12 phen cố gắng hạ nhiệt nền kinh tế tăng trưởng quá nóng mà đồng thời tránh gây ra  trì trệ. Và họ chỉ thành công đúng có một lần [15]. Liệu ngân hàng trung ương Trung Quốc, dưới sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị, cùng giới lãnh đạo có thực quyền trong chính phủ có cơ may thành công hơn định chế độc lập này của Hoa Kỳ hay không?

Điều ấy có vẻ bất khả. Và hậu quả, cho kinh tế Trung Hoa và thế giới, sẽ là bất hạnh.


**************

Chú thích

Ngoài những đoạn ngắn ghi trong ngoặc vuông [...] người dịch xin có thêm vài giải thích về bối cảnh để chúng ta dễ tiếp nhận nội dung một bài viết khá chuyên môn:


[1] Nguyên văn: "white-hot", một thuật ngữ được dùng bên ngành luyện thép, thép nóng đến trắng tinh, ở đây nói nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh và không ổn định, như dòng kim loại bị nấu chảy ra.

[2] Nguyên văn: "capital spending". Đầu tư vào tài sản cố định như đất đai và thiết bị sản xuất.

[3] Tác giả Willy Lam, trong bài viết "Local Debt Problems Highlight Weak Links in China's Economic Model" đăng ở trang mạng chính thức của The Jamestown Foundation hôm 15/7/2011, đã nêu mức đầu tư vào tài sản cố định (fixed-assets investments) của nước này vào năm 2010 là khoảng 46,5% tổng giá trị GDP, theo nguồn tin của tờ Hoàn Cầu Thời báo và trang www.china.org.cn.

[4] Cũng theo tác giả Willy Lam nói trên, thì tiền thu được do bán đất và thuế đánh trên các giao dịch bất động sản lại là nguồn thu đáng kể cho cơ quan chính quyền địa phương Trung Quốc, ước tính chiếm gần phân nửa thu nhập của họ. Bài viết của Willy Lam đã được Dainamx giới thiệu.

[5] Hậu quả của tình trạng xây nhanh hơn bán là hàng loạt các "thành phố ma" xuất hiện ở Trung Quốc. Xin xem chi tiết ở bài tiếng Việt "Những thành phố ma ở Trung Hoa" của tác giả Toan Do trên mạng http://toandd.blogspot.com/2011/05/nhung-thanh-pho-ma-o-trung-hoa.html, dịch từ bài viết "The ghost towns of China: Amazing satellite images show cities meant to be home to millions lying deserted" đăng trên trang mạng của tờ Daily Mail ngày 18/12/2010.

[6] Tức là cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 2011, theo ngày tác giả công bố bài viết này.

[7] Nguyên văn: "National Audit Office", một cơ quan thuộc cấp bộ trong Hội đồng Chính phủ Trung Quốc, được thành lập từ năm 1983 để kiểm kê và giám định các trương mục kế toán quốc gia.

[8] Nguyên văn: "provincial-government financing vehicles". Xin tham khảo vấn đề này trong loạt bài của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về những món nợ giấu kín của Trung Quốc đã được yết trên Dainamax Magazine.

[9] Tức là chính sách ghìm giá đồng Nguyên ở mức thấp vào Mỹ kim, nhằm kích thích xuất cảng nhờ bán hàng ra với giá trẻ hơn, do đồng bạc được định giá thấp hơn.

[10] Nguyên văn: "reserve requirements", tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay pháp định so với tổng số ký thác nhận vào. Nâng mức dự trữ này là giảm mức cho vay ra. Từ ngày 20/06 /2011 vừa qua, tỷ lệ này là 21,5% đối với ngân hàng lớn, và 19,5% đối với ngân hàng nhỏ.

[11] Nguyên văn: "hot money", dòng vốn đầu tư ngắn hạn di chuyển ra vào một quốc gia trong mục tiêu đầu tư mà cũng là đầu cơ ngắn hạn vì muốn kiếm lời cho nhanh. Vì vậy có thể tràn vào hoặc rút ra thật mau nên dễ gây bất ổn về ngoại hối.

[12] Nguyên văn: "in a midcourse correction", ý ám chỉ tính bất nhất trong các quyết sách tài chính và tiền tệ của chính phủ nước này khi nửa chừng lại phải điều chỉnh.

[13] Nguyên văn: "hybrid market system", có lẽ tác giả nói đến hình thái kinh tế thị trường nửa kín nửa hở mang màu sắc Trung Hoa. Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa có lần chơi chữ... Tầu mà gọi là "phi cầm phi thú", nửa chim nửa chuột!

[14] Federal Reserve System (gọi tắt là FED) ra đời năm 1913, định chế tài chính tương đương với hệ thống ngân hàng trung ương tại quốc gia khác. Trên thực tế, FED là định chế độc lập, bán công bán tư, gồm 12 ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ, nên là hệ thống ngân hàng quốc gia mà do tư nhân góp phần quản lý, nhưng lại do các chuyên gia độc lập lãnh đạo. Đứng đầu FED là Hội Đồng Thống Đốc có 7 thành viên, gồm có Chủ Tịch do tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm, 2 thành viên đại diện cho chính phủ là Bộ Tài Chính và Ngân khố Hoa Kỳ, còn lại là 4 chủ ngân hàng tư nhân. Trong một nhiệm kỳ (4 năm đương chức), tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED, và tất cả đều phải được sự đồng ý của Thượng Viện Hoa Kỳ, chuyện vốn không mấy dễ dàng. Ngân hàng Trung ương Mỹ không bị lãnh đạo chính trị chi phối, ngược lại, chính quyền mà muốn ảnh hưởng đến chính sách thì lập tức bị phản tác dụng. Thí dụ như năm 1991, kinh tế Mỹ bị suy trầm, Tổng thống George H. Bush muốn FED hạ lãi suất để kích thích mà không được. Kết quả là ông thất cử năm 1992 vì tình hình kinh tế và mãi sau này còn than phiền về sự oan uổng đó dù chính ông đã tái bổ nhiệm Chủ tịch Alan Greenspan vào chức vụ lãnh đạo định chế này. Việc tìm hiểu về đặc tính của các ngân hàng trung ương là một đề tài khó, nhưng có lẽ cần thiết để hiểu ra tiến trình quyết định về chuyện bạc tiền của người dân.

[15] Có lẽ tác giả nhắc đến kỳ tích của ông Paul Volcker (Chủ tịch FED thời 1979 – 1987) khi được sự yểm trợ Tổng thống Ronald Reagan (nhiệm kỳ 1981-1989) đã giúp Hoa Kỳ vượt qua giai đoạn lạm phát đi cùng đình trệ (stagflation) kéo dài từ thập niên 70. Năm 1983, lạm phát tại Mỹ đã hạ xuống mức 3,2%, sau khi lên đến đỉnh điểm 13.5% hồi năm 1981 và mở ra một thời kỳ phát đạt kéo dài gần 25 năm.


Như trong hai bài trước, xin cám ơn bác Nguyễn Xuân Nghĩa đã hiệu đính và giải thích thêm một số từ chuyên môn và cũng xin cảm tạ quý độc giả đã có lời bình và chỉ dẫn. TD.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét